Top 11 # Xem Nhiều Nhất Vitamin B12 Co Loi Ich Gi Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Comforttinhdauthom.com

An Dau Bap Co Loi Ich Gi Cho Suc Khoe

, Sức khỏe và đời sống at Sức khỏe và đời sống

Published on

Ăn đậu bắp có những lợi ích gì cho sức khỏe? Đậu bắp rất có ích trong việc ngừa bệnh gan, ổn định đường máu

1. Ăn đậu bắp có lợi ích gì cho sức khỏe

2. Đậu bắp là món ăn ưa thích của nhiều người trên khắp thế giới. Nếu ăn đậu bắp thường xuyên, bạn sẽ thấy những điều tuyệt vời mà nó mang lại cho sức khỏe, theo natural news.

3. Ổn định đường trong máu Đậu bắp rất giàu chất xơ, rất có lợi cho cơ thể. Chất xơ rất cần thiết cho việc duy trì nồng độ cholesterol khỏe mạnh, giúp tiêu hóa tốt và ổn định lượng đường trong máu.

4. Thai kỳ khỏe mạnh Theo tạp chí song khoe moi ngay thì Đậu bắp sẽ đảm bảo thai phụ có một thai kỳ khỏe mạnh vì nó có chứa lượng lớn vitamin B, rất quan trọng cho việc thúc đẩy một thai kỳ khỏe mạnh. Bên cạnh đó, folate trong đậu bắp giúp giảm các khuyết tật ống thần kinh ở trẻ sơ sinh.

5. Giúp giảm cân Không chỉ giàu chất xơ, đậu bắp cũng rất ít calo. Chỉ có 30 calo trên mỗi 100 g, đậu bắp là một lựa chọn tốt cho một chế độ ăn uống giảm cân. Giúp ích cho người mắc bệnh thận Một nghiên cứu năm 2005 phát hiện ra rằng những người ăn đậu bắp cải thiện chức năng thận.

6. Ngừa bệnh gan Một nghiên cứu 2011 cho thấy đậu bắp có khả năng ngăn ngừa bệnh gan nhờ chất chống oxy hóa trong đậu bắp. Ngừa bệnh tiểu đường Đậu bắp đã được sử dụng để ngăn ngừa và điều trị bệnh tiểu đường. Trong một nghiên cứu trên chuột bị tiểu đường cho thấy đậu bắp giúp giảm lượng đường trong máu.

7. Tốt cho sức khỏe tâm thần Một nghiên cứu từ Đại học Khoa học y Mazandaran cho thấy đậu bắp có khả năng cải thiện tâm trạng, rất hữu ích cho những người đang bị trầm cảm.

Loi Ich Cua Viec Doc Sach

Trong thực tế, tác dụng của việc đọc sách không chỉ dừng lại ở chỗ tiếp thu kiến thức mà đọc sách còn là một biện pháp để hoàn thiện mọi mặt của con người. Với ý nghĩa này, các loại sách văn hóa học, văn chương, lịch sử, triết học không chỉ là những loại sách thuần chuyên môn mà đã trở thành sách chung cho mọi người, cho xã hội. Do đó, sẽ rất thiếu sót nếu bạn nói rằng ‘Tôi là SV Thể dục thì cần gì đọc sách Văn học’, hay ‘Tôi là sinh viên Kinh tế cần gì đọc sách lịch sử’ và cho rằng những loại sách đó không thiết thực đối với công việc của bạn… Những cái lợi của chuyện đọc sách đã quá rõ ràng, thiết nghĩ không cần nhắc lại. Bên cạnh việc đọc sách để tiếp thu tri thức, việc đọc sách đôi khi còn rèn luyện cho bạn những kĩ năng, tình cảm và thói quen hữu ích mà đôi khi bạn không nhận ra.

1.Đọc sách giúp tăng cường khả năng giao tiếp:

Bạn có bao giờ thấy ngại ngùng khi đứng trước đám đông? Bạn có bao giờ run lẩy bẩy không biết diễn đạt ý mình như thế nào trước mọi người? Bạn có bao giờ nói vòng vo một vấn đề và cố gắng giải thích mà người khác vẫn không sao hiểu nổi? Đọc sách thực chất là một quá trình giao tiếp, khi đó tác giả quyển sách và bạn là những nhân vật tham gia giao tiếp. Chỉ có điều quá trình giao tiếp này diễn ra 1 chiều, những vấn đề tác giả nói đến đi sâu vào trí não và hình thành tư duy ở bạn thế nhưng những suy nghĩ của bạn tác giả không hề biết được nếu bạn không viết thư hay gọi điện thoại phản hồi. Quá trình giao tiếp này giúp các bạn hiểu vấn đề, biết cách trình bày vấn đề theo chiều hướng triển khai hay khái quát hợp lý, cách lý luận hay dùng dẫn chứng chứng minh cho một luận điểm nào đó. Đọc sách một thời gian lâu, bạn sẽ biết trình bày vấn đề một cách khúc chiết, mạch lạc, suông sẻ, có đầu có đũa gọn gàng dễ hiểu. Không chỉ vậy, nhờ loại hình giao tiếp đặc biệt này, bạn sẽ tinh tế hơn khi cảm nhận, phán đoán những cảm xúc, thái độ của người khác. Hình thành những phản xạ và sự nhạy cảm, linh hoạt cần thiết để xử lý vấn đề. Chẳng hạn, bạn biết nói bằng ngữ điệu

thế nào, khi nào nói khi nào ngưng, khi nào đặt câu hỏi khơi gợi, khi nào pha trò tạo cảm hứng mới ở người tham gia giao tiếp.

2. Đọc sách giúp rèn luyện năng lực tưởng tượng, liên tưởng, sáng tạo:

Sách được viết bằng hệ thống ngôn ngữ, cụ thể là các chữ viết được nối kết liên tục với nhau tạo thành câu, dòng, đoạn, bài… Từ ngữ được dùng luôn có nghĩa, và nét nghĩa đó lại được quy chiếu vào các sự vật tương ứng trong cuộc sống. Thí dụ nói đến ‘tĩnh vật’ chúng ta nghĩ đến một loạt các đồ dùng hay cây trái được đặt trong trạng thái yên tĩnh, nói đến ‘quỹ đạo’ chúng ta nghĩ đến tập hợp những điểm tạo nên một con đường khép kín dành cho sự chuyển động của một thực thể nào đó, hoặc nói đến ‘hoa mai’ chúng ta nghĩ đến loại hoa nhiều cánh, nở vào mùa xuân, đẹp và mọi người thích thưởng thức… Như vậy, quá trình đọc sách thực chất cũng là một quá trình quan sát các sự vật và hiện tượng trong cuộc sống thực mà chữ viết được quy ước tượng trưng thông qua quá trình tưởng tượng, liên tưởng.

Rồi cũng có khi sự liên tưởng nảy sinh khi bạn so sánh những vấn đề đã được đọc trong sách này và sách khác, trong quan điểm của người này người khác, cái giống và khác nhau, tại sao lại có giống và khác như vậy… Trí tưởng tượng phong phú, suy nghĩ cặn kẽ, kết hợp với những động lực khám phá tìm tòi sẽ giúp bạn hình thành năng lực sáng tạo, nghĩ ra cái mới, tìm ra cái mới và từ đó làm ra cái mới. Không có đọc sách, người ta khó có thể thực hiện được điều đó. 3. Đọc sách giúp rèn luyện năng lực ngôn ngữ:

Bạn thường viết sai chính tả và rất ngại viết vì sợ mọi người chọc. Bạn hay viết những câu không đúng ngữ pháp tiếng Việt, hoặc những câu cụtttt, câu quèèèè không đủ các thành phần chính. Cũng có thể bạn sử dụng những từ ngữ không hợp với đối tượng bạn muốn đề cập. Hoặc bạn có vốn từ vựng quá ít, không đủ để huy động ra trình bày sáng tỏ một vấn đề. Thậm chí bạn không hiểu rất nhiều từ ngữ trong tiếng Việt có nghĩa là gì vì bạn chưa hề nghe qua… Việc đọc sách là biện pháp hữu hiệu nhất giúp bạn khắc phục những sai sót đó trong việc sử dụng ngôn ngữ. Bạn đọc một cuốn sách văn chương thấy tác giả dùng những từ ngữ rất hay để miêu tả bầu trời trong những trạng thái khác nhau. Bạn sẽ thấy những câu văn bắt đầu bằng chủ ngữ hay vị ngữ, bắt đầu bằng động từ hoặc tính từ mà vẫn đúng cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt. Bạn biết cách dùng những từ ngữ chuyển tiếp ‘như vậy’, ‘đương nhiên’ một cách khéo léo uyển chuyển để diễn đạt vấn đề. Bạn cũng sẽ bắt gặp những hình thức viết đúng của những từ ngữ mà bạn phân vân lưỡng lự không biết viết thế nào…Và chính quá trình đọc sách lâu dài, sự tập trung và tinh ý sẽ giúp bạn hình thành những kĩ năng ngôn ngữ đó.

4. Đọc sách giúp sống tốt trong xã hội và làm người:

Đọc sách và sống tốt là hai việc xem ra chẳng ăn nhập gì với nhau nhưng thực chất có sự tác động qua lại rất lớn. Ai cũng biết, người biết suy nghĩ phải trái, biết lý lẽ là những người không sống tùy tiện. Mọi lời nói, suy nghĩ và việc làm của họ luôn hướng tới cái hay, cái đẹp; hướng tới lợi ích bản thân trong mối quan hệ với lợi ích chung của những người xung quanh. Cách sống đó là món trang sức quý giá nhất mà mỗi người tự trang bị cho mình thông qua học vấn, cụ thể là từ việc đọc sách.Đọc sách thể dục thể thao, chúng ta biết rèn luyện sức khỏe dẻo dai bền bĩ hơn. Đọc sách triết học, chúng ta nhận ra những quy luật và những diễn biến ý thức hệ trong cuộc sống, từ đó hình thành cách nhìn và cách nghĩ của bản thân. Đọc sách vật lý chúng ta hiểu biết về quy luật vận động của thế giới tự nhiên hơn, từ đó ứng dụng vào cuộc sống. Đọc sách văn học để hình thành cảm xúc, thái độ hợp lý trước mọi cảnh ngộ, cuộc đời; xây dựng đời sống hài hòa, nhân văn, có chiều sâu… Tóm lại, sách đem đến cho con người một cuộc sống tốt đẹp, hòa hợp giữa bản thân với cộng đồng, môi trường xung quanh, xã hội và cả nhân loại.

Dĩ nhiên, những điều được trình bày phía trên không phải là tất cả những lợi ích mang lại của việc đọc sách. Chúng ta còn có thể thấy, người đọc nhiều sách có kiến thức sâu rộng, hội tụ nhiều năng lực, lời nói có cơ sở và có uy tín nên được mọi người lắng nghe, xem trọng… Nhưng ai cũng biết, đọc sách trước tiên là để giúp mình càng tốt hơn.

Tâm Thư

Vitamin B12 Quan Trọng Thế Nào?

Ngày nay, người ta biết rằng vitamin B 12 chỉ có trong động vật và thực phẩm lên men. Hệ vi khuẩn ruột người khỏe mạnh cũng sản sinh ra một lượng vitamin B 12 đủ dùng cho cơ thể. Nhu cầu vitamin B 12 của người trưởng thành là 2mcg/ngày.

Vitamin B 12 dược phẩm có hai dạng là: cyanocobalamin và hydroxocobalamin đều có tác dụng tạo máu như nhau (hydroxocobalamin hấp thu qua đường tiêu hóa tốt hơn và có ái lực với các mô lớn hơn cyanocobalamin). Trong cơ thể các cobalamin này tạo thành các coenzym hoạt động là 5-deoxyadenosylcobalamin và methylcobalamin.

Vitamin B 12 cần thiết cho tất cả các mô có tốc độ sinh trưởng tế bào mạnh (mô tạo máu, ruột non, tử cung…). Vitamin B 12 tạo DNA vật liệu di truyền trong tế bào, duy trì tình trạng khỏe mạnh của tế bào thần kinh và hồng cầu, giữ vai trò then chốt trong phát triển hồng cầu. Vitamin B 12 thường dùng để điều trị các bệnh đau thần kinh (như thần kinh tọa, thần kinh vùng cổ, cánh tay…), các bệnh về máu như: thiếu máu ác tính hoặc thiếu máu sau khi cắt dạ dày…

Khi cơ thể thiếu vitamin B 12

Thực phẩm có vitamin B 12 là gan cừu 54mcg%, gan lợn 23mcg%, sữa bò 0,2 – 0,6mcg%, trứng 6mcg/quả, lòng đỏ trứng 1,2mcg%; thịt bò 2-8mcg%, thịt lợn 0,1 – 5mcg%, thịt gà 3mcg%, cá hồi 5,4mcg%. Sò, trai, ốc, hến: 84mcg%. Tương, chao, sữa chua, dưa cải, dưa giá (vitamin B 12 khá bền vững ở nhiệt độ nấu ăn ở 100 o C).

Khi nồng độ vitamin B 12 không đủ sẽ gây ra hủy myelin sợi thần kinh, suy giảm chức năng của một số dạng acid folic cần thiết khác trong tế bào, gây bất thường huyết học ở người bệnh thiếu vitamin B 12. Do đó, phụ nữ trong tuổi sinh đẻ cần đảm bảo đủ vitamin B 12 trước và trong thời kỳ mang thai (nồng độ vitamin B 12 trong máu thai phụ trên 300ng/l vào đầu thai kỳ có thể bảo vệ thai nhi tránh dị tật ống thần kinh). Thai phụ có hàm lượng vitamin B 12 trong máu thấp sẽ sinh con hay quấy khóc. Nhiều biệt dược chứa các vitamin và khoáng chất cần cho phụ nữ mang thai như vitamin B 12, acid folic (còn gọi là B 9), sắt… rất tiện dùng. Người cao tuổi thiếu vitamin B 12 dễ bị teo não và suy giảm trí nhớ, trầm cảm.

Lưu ý khi sử dụng

Theo TS. Maria Carillio, vitamin B 12 có tác dụng làm giảm mức độ homocystein, rất lợi cho tim mạch và ngăn nguy cơ sinh bệnh Alzheimer (lú lẫn tuổi già).

Vitamin B 12 được hấp thụ trong thức ăn và thuốc, sau khi ăn uống được hấp thu ở ruột non (hồi tràng) nhờ gastromucoprotein của tế bào niêm mạc dạ dày tiết ra. Vì vậy, người bệnh viêm loét dạ dày không dùng được vitamin B 12 uống mà phải tiêm. Mức độ hấp thu khoảng 1% không phụ thuộc liều lượng.

Khi tiêm bắp hoặc tiêm dưới da sâu, sau 1 giờ vitamin B 12 (cyanocobalamin) đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương rồi được dự trữ ở nhu mô gan để phân phối cho các mô khác.

Người có nguy cơ thiếu vitamin B 12: những người ăn chay trường diễn, viêm, teo niêm mạc dạ dày, cắt bỏ toàn bộ dạ dày, cắt bỏ đoạn cuối ruột non.

Vitamin B 12 tuyệt đối không dùng trong các trường hợp: u ác tính (có nguy cơ làm u ác tiến triển), có tiền sử dị ứng với các cobalamin, người có cơ địa dị ứng (hen, eczema), người có bệnh trứng cá.

Không dùng vitamin B 12 với metformin vì metformin làm giảm 19% lượng vitamin B 12 trong máu.

Vitamin B 12 cho phép cơ thể đốt cháy nhiều calo, giảm chất béo dự trữ; do đó có người tiêm vitamin B 12 để giảm cân cho người béo phì nhưng phải tuân thủ nghiêm ngặt các điều kiện như: ăn chay, tập luyện giảm cân hàng ngày. Nếu không sẽ gặp nhiều nguy hiểm như: ho dữ dội, thở khò khè, nhịp tim nhanh, hồi hộp, đau ngực.

Phản ứng phụ thường gặp khi dùng vitamin B 12: buồn nôn, khó chịu trong dạ dày, đau khớp, nhức đầu, phù nề cơ thể.

DS. Trần Xuân Thuyết

Vitamin B12 Cần Cho Những Người Nào?

Vitamin B12 (viết tắt là B12) đã được biết đến từ lâu. Năm 1948, nhà khoa học Rickes và cộng sự đã phân lập được từ gan một chất kết tinh màu đỏ đặt tên là B12. Những năm sau đó, các công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đã phát hiện ra lượng B12 mà cơ thể cần tới hàng ngày, nó có ở những nguồn thức ăn nào và khi cơ thể thiếu B12 thì có những triệu chứng gì… Mấy năm gần đây lại có thêm những nghiên cứu mới bổ sung cho B12.

Vitamin B12 có trong hoa quả.

Động vật và thực vật không tổng hợp được B12, mà nó do vi khuẩn tổng hợp. Trong cơ thể các động vật ăn cỏ, B12 được tổng hợp bởi hệ vi khuẩn đường ruột, sau đó được hấp thu. Hàm lượng B12 tính theo microgam (mcg) có trong 100 gam thực phẩm tươi như sau: thịt bò 2 -8, thận bò 20 -50, gan bò 30 -130, sữa bò 0,2 – 0,6, thịt lợn 0,1 – 5, lòng đỏ trứng 1,2… Các thực phẩm thực vật, rau quả hầu như không có B12. Trong thực phẩm, B12 đều ở dạng phức hợp với protein. B12 khá bền vững với nhiệt độ trong nấu ăn, trừ khi trong môi trường kiềm và nhiệt độ quá 100oC. Sữa đun sôi 2 -5 phút mất 30% B12, thịt luộc 45 phút mất khoảng 30% B12…

Thiếu B12 và triệu chứng bệnh

Nhu cầu B12 hàng ngày theo RDA (khẩu phần dinh dưỡng khuyến khích) là 2mcg cho nam và nữ trưởng thành. Phụ nữ có thai và cho con bú thì 2,2mcg.

B12 được hấp thu qua thức ăn nhờ một yếu tố nội tại chống thiếu máu của dịch vị là gastromucoprotein, nếu thiếu yếu tố này B12 sẽ bị đào thải, do đó trong điều trị người ta thường dùng B12 dạng thuốc tiêm.

Nhân dân thường gọi vitamin là thuốc bổ, vì cơ thể cần có chúng mới duy trì được sức khỏe, nếu thiếu một vitamin nào đó dễ phát sinh bệnh tật. Với B12 cũng vậy, hầu hết thiếu B12 ở người là do kém hấp thu B12, do thiếu yếu tố nội tại, hay giảm hoặc mất chức năng hấp thu đặc hiệu của đoạn cuối ruột non. Những người dễ bị thiếu B12 gồm: những người ăn chay trường diễn hoàn toàn không ăn thực phẩm nguồn gốc động vật. Những người bệnh viêm teo niêm mạc dạ dày, hoặc đã phẫu thuật cắt bỏ một phần hay toàn bộ dạ dày. Người có bệnh ở ruột non, phần ruột bệnh bao gồm cả phần cuối ruột non như bệnh Sprue, bệnh viêm ruột vùng, đã cắt đoạn ruột hoặc nối tắc ruột.

Nếu thiếu B12 sẽ rối loạn sản xuất máu ở tuỷ xương, dẫn đến thiếu máu nguyên bào khổng lồ do hồng cầu không trưởng thành được. Người bệnh xanh xao, dễ mệt yếu, ăn mất ngon, hay hồi hộp “đánh trống ngực”, đau đầu, khó thở… Ngoài ra, còn có các biểu hiện về thần kinh như dị cảm (cảm giác tê dần, buồn buồn như kiến bò), giảm cảm giác vị thế (chứng thất điều, đi đứng xiêu vẹo), khả năng trí óc giảm, hạ huyết áp tư thế đứng…

B12 với người bệnh ung thư

B12 đặc biệt có tác dụng tốt với nhiều người bệnh, vì nó giúp cho sự phân chia và tái tạo của tổ chức, giúp tổng hợp mạnh protein và chuyển hoá lipid do đó giúp cho sự trưởng thành của cơ thể. B12 tham gia phản ứng tổng hợp thymidylate – một thành phần trong phân tử ADN, cung cấp nguyên liệu để tổng hợp ADN, góp phần vào quá trình phân chia tế bào và trưởng thành tế bào trong cơ thể. Nhưng với bệnh nhân ung thư thì ngược lại. Bởi người ta nhận thấy: khối u ác tính có những biểu hiện sinh hóa của một tổ chức đang phát triển mạnh, tăng những chất protein có trọng lượng phân tử nhỏ, tăng loại acid amin đồng phân D (bình thường phần lớn là đồng phân L), tăng AND và ARN do tăng phân bào và tăng tổng hợp protein. Ngoài ra, còn tăng các acid béo không bão hoà, tăng phospho lipid, lecithine và cholesterol, tăng giáng hóa glucid theo con đường yếm khí…

Với những lý do nói trên của khối u ác tính, người ta không muốn “đổ thêm dầu vào lửa”, mà khuyên không nên dùng B12 cho người bệnh ung thư, vì nó có thể làm tăng tốc độ phát triển của tế bào ung thư làm cho ung thư phát triển nhanh.

Ngoài ra, B12 còn không được dùng cho người bệnh trứng cá, người có tiền sử dị ứng thuốc, người bệnh thiếu máu chưa rõ nguyên nhân.

Một vài nghiên cứu gần đây

Thiếu B12 và dị tật ở thai nhi

Phụ nữ mang thai nếu cơ thể thiếu acid folic (còn gọi là vitamin B9) sinh ra con hay bị dị tật nứt đốt sống thần kinh, nhiều người đã biết. Nhưng công trình nghiên cứu công bố năm 2004 của các nhà khoa học thuộc Trường đại học Y khoa Nijmegen, Hà Lan cho biết thêm nếu chỉ riêng acid folic thôi thì chưa đủ, mà phụ nữ mang thai còn cần thêm cả B12. Nghiên cứu được thực hiện trên 45 bà mẹ có con bị nứt đốt sống, so với 83 bà mẹ khác có con không bị dị tật. Kết quả định lượng B12 trong máu đã cho thấy: các bà mẹ có con bị dị tật nứt đốt sống, có hàm lượng B12 trong máu thấp hơn 21% so với các bà mẹ kia. Họ cũng cho biết, nếu thiếu B12 trầm trọng, tỉ lệ mắc dị tật này có thể tăng lên gấp 3 lần.

B12 và não người cao tuổi

Các nhà nghiên cứu thuộc Trường đại học Oxford, Anh mới đây đã thông báo một kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của B12 đến não người cao tuổi. Họ đã nghiên cứu định lượng B12 trong máu của 1.000 người có độ tuổi từ 61 – 87, chụp cắt lớp não, kiểm tra trí nhớ. Những người này được theo dõi trong 5 năm. Kết quả thấy rằng những người được bổ sung B12, hoặc có hàm lượng B12 trong máu cao thì khối lượng não bị teo (kích thước não nhỏ dần theo tuổi ở người già) chỉ bằng 1/6 những người già có hàm lượng B12 trong máu thấp hơn. Theo các nhà nghiên cứu công trình này thì có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động và chức năng của não mà ta không thể kiểm soát được. Họ khuyên chỉ cần thay đổi trong chế độ ăn bao gồm việc tăng cường các loại thực phẩm giàu B12 có thể giúp hạn chế teo não ở người cao tuổi và cải thiện trí nhớ môt cách rất đáng khích lệ.

BS. Vũ Hướng Văn