Top 5 # Xem Nhiều Nhất Ví Dụ Lợi Ích Của Mạng Máy Tính Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Comforttinhdauthom.com

Hãy Nêu Ví Dụ Cho Thấy Lợi Ích To Lớn Của Máy Tính Điện Tử Đối Với Con Người?

a/ Ảnh hưởng đến sức khỏe:

Trên lý thuyết thì công nghệ không phải là “chất” trực tiếp gây ra vấn đề sức khỏe ở trẻ em, nhưng sử dụng quá mức và tập trung quá nhiều vào các thiết bị này có thể dẫn đến thói quen không lành mạnh, ảnh hưởng không chỉ ở thể chất mà còn là tinh thần của trẻ.

(Ví dụ, nếu để trẻ hàng giờ ngồi trên máy tính chỉ để chơi game, và bạn là phụ huynh vì nuông chiều trẻ, sợ trẻ khóc lóc, đòi quấy thì bạn đã vô tình đem thiết bị công nghệ làm hại khả năng hoạt động của trẻ. Bạn sẽ làm trẻ ít vận động, trẻ không còn thích di chuyển nhiều nữa; điều này có thể dẫn đến béo phì và các vấn đề sức khỏe khác.)

Thời gian trước màn hình thiết bị tỷ lệ thuận với bệnh béo phì: Trẻ em dành nhiều thời gian xem truyền hình, chơi video game, sử dụng máy tính liên tục, dành ít thời gian tập thể dục, và có xu hướng thích ăn đồ ăn nhẹ, đồ ăn nhanh nhiều chất béo sẽ làm các chất béo tích tụ trong cơ thể và các con bạn sẽ tức khắc bị bệnh béo phì. Béo phì có thể dẫn đến các bệnh như tự ti, trầm cảm, tiểu đường, và các bệnh này không những tốn kém để điều trị mà còn hết sức nguy hiểm khi tuổi đời của các em còn quá nhỏ.

Khắc phục:

Bố mẹ nên lập thời khóa biểu cho con và hướng dẫn con mình thực hiện theo lịch trình đã đề ra, trong đó có những khoảng thời gian dành cho việc tập thể dục nâng cao sức khỏe (như cho trẻ ra công việc chơi với những đứa trẻ khác, gửi trẻ đến các trung tâm thể dục, tập võ, múa hát nhằm giúp trẻ có thể vận động nâng cao thể lực…).

Bác sĩ tâm lý Douglas Gentile thuộc trường đại học Iowa, Hoa Kỳ, chuyên nghiên cứu về thời gian trên màn hình và tác động đối với trẻ, có ý kiến như sau: “Theo tôi những nghiên cứu sau này cần phải chú ý tới là khi cha mẹ bắt đầu thiết lập những luật lệ từ khi trẻ còn nhỏ và khi trẻ lớn hơn thì có thể là trẻ sẽ có khả năng tự giác, tự kiểm soát thời gian của mình tốt hơn vì chúng học được điều là không nên nhìn vào màn hình liên tục kể từ khi chúng tỉnh ngủ, và phải giữ thời gian này cân bằng với các thời gian khác trong ngày.”

Một điều nữa bạn nên hiểu tâm lý của trẻ là càng cấm đoán, bạn sẽ càng rắc rối bởi vì nếu bạn làm như vậy, chúng sẽ tìm cách để sử dụng bằng được các thiết bị điện tử trong tình trạnglén lút, thậm chí có thể gây hại nhiều hơn về sức khỏe và thị giác của trẻ.

Một trong những lý do chính tại sao trẻ em dành nhiều thời gian hơn với công nghệ, là vì cha mẹ quá bận rộn với công việc hằng ngày mà quên để dành thời gian với con cái. Những hoạt động bổ ích như dẫn trẻ đi bơi, chơi bóng bàn hay bóng đá, đi bộ trong công viên, chơi với thú cưng, đạp xe đạp với bố mẹ,…hoặc hơn nữa bố mẹ tạo ra các cuộc thi vật lý giải trí tại nhà nhằm mục tiêu chính là để tìm cách nâng cao khả năng sáng tạo và “đánh lạc hướng” trẻ thoát khỏi đam mê quá nhiều vào công nghệ.

b/ Ảnh hưởng về tư duy:

Một tác động khác không mấy tốt hoặc có thể nói là dẫn đến tiêu cực của công nghệ đối với trẻ em hiện nay là xu hướng thiếu kiên nhẫn. Từ sự sẵn có, cách tìm kiếm nhanh chóng của những điều mà một giáo viên muốn ở trẻ biết cách sử dụng tư duy để suy nghĩ, giải quyết một vấn đề thì ngược lại trẻ lại dựa dẫm vào những cái đã có sẵn thông qua mạng internet, trẻ em ngày nay thực tế đang học theo phương pháp dạy của “tiến sỹ Google”; điều này quả thật không phải là một điều tốt khi trẻ đang trong độ tuổi dần phát triển trở thành người lớn.

Mất thời gian cho các thiết bị công nghệ có thể lấy đi sự bổ ích từ các hoạt động khác như học tập, tập thể dục, hoặc các hoạt động đội nhóm để nâng cao kỹ năng giao tiếp xã hội. (Ví dụ, trò chơi video game của những năm trước đây từng hướng trẻ tìm tòi, hào hứng và chỉ trong thời gian ngắn đã hoàn thành, nhưng trò chơi ngày nay có thể mất vài tuần hoặc thậm chí cả năm để hoàn thành, chưa kể các game online theo thời gian thực sẽ là “chất gây nghiện” không khác gì một chất kích thích có thể khiến trẻ mất ăn, mất ngủ và lúc nào cũng muốn lao vào những trò chơi ảo trên internet).

Bên cạnh đó nếu quá lạm dụng Internet trong giải trí thì ngoài ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người sử dụng thì việc thường xuyên chơi Game online – loại hình giải trí thu hút rất đông người tham gia, đặc biệt là giới trẻ dẫn đến việc nghiện game khi chơi quá đà, các em sẽ trở thành “con nghiện” quên cuộc sống thực của mình, sa đà vào cuộc sống ảo giác và tìm mọi cách để thỏa mãn cơn nghiện của mình ngay cả phải thực hiện những hành vi tiêu cực, những hành vi vi phạm pháp luật và phạm pháp hình sự.

c/ Những ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ trong gia đình:

Hầu hết các bậc cha mẹ có ít thời gian hơn với con cái của họ, vì họ phải làm việc, và sau một ngày bố mẹ sẽ trở về nhà và họ sẽ có rất ít thời gian để vừa làm công việc nhà, vừa trò chuyện hay chơi với con. Vì vậy, vào cuối ngày, thường trẻ chỉ thấy thoải mái khi chơi game, xem truyền hình, chat với bạn bè trên facebook, truy cập những trang web có nội dung không lành mạnh trong khi bố mẹ phải nấu nướng, giặt giũ, chuẩn bị bữa tối. Dần dần chúng cảm thấy không thể thiếu và rời xa được những thói quen này; cảm giác gần gũi, trò chuyện với bố mẹ sẽ dần mất đi. Đến lúc đó thì trẻ sẽ thụ động, thậm chí việc nghe lời bố mẹ sẽ là một điều rất khó khăn cho bất kỳ bậc phụ huynh nào.

Khắc phục:

Cha mẹ nên dành nhiều thời gian với con cái sau khi đi làm về, học tập cùng con, cùng con chơi game hoặc lên internet tìm hiểu những kiến thức mới, giải thích cho con những điều hay, lẽ phải,…; Bạn sẽ tạo ra một mối liên kết mạnh mẽ giữa bạn và con cái của bạn, để chúng cảm thấy tự tin, gần gũi, biết chia sẻ nhiều điều hơn trong học tập, cũng như trong cuộc sống. Vì vậy, cái bạn nhận lại là thật sự lớn lao và đầy tình cảm, ngay cả khi con bạn đọc một cái gì đó trên internet chúng sẽ tham khảo ngay ý kiến của bạn và cần bạn giải thích cho chúng hiểu rõ hơn.

Khắc phục:

Cha mẹ cần lưu ý hành vi của trẻ kể cả khi online hay offline. Trong trường hợp vô tình trẻ em làm những gì chúng nhìn thấy thì bạn có thể ngăn chặn ngay truy cập của một số trang web mà có thể có hại cho trẻ. Nếu bạn không có kinh nghiệm, không rành kỹ thuật, bạn có thể thuê một người biết về chuyên môn để hướng dẫn bạn.

Hãy chắc chắn rằng con bạn chỉ dùng internet cho mục đích học tập và trao đổi tài liệu với bạn bè và thầy cô.

e/ Kỹ năng xã hội kém:

Nhiều trẻ đang dành phần lớn thời gian chơi điện tử, xem truyền hình và sử dụng các mạng xã hội như facebook, zalo, viber,…và chỉ như đối thoại một mình.Vì vậy, chúng chỉ dành rất ít thời gian để giao tiếp với các bạn đồng trang lứa hay bạn bè ở lớp. Nếu một đứa trẻ có kỹ năng xã hội kém, nó sẽ cảm thấy rất khó để giao tiếp với mọi người, nhất là khi chúng ở vào độ tuổi trưởng thành, và điều này có thể gây hại cho cuộc sống của chúng trong thời gian dài. Những người sống tách biệt, không xã hội khó có thể kết hợp với cuộc sống xã hội và trong nhiều trường hợp họ sẽ có cảm giác trầm cảm, cô đơn. Đến khi gặp phải khó khăn họ không thể nhận được sự giúp đỡ nào mà chỉ nghĩ “quẫn” dẫn đến những hậu quả thật đáng tiếc.

Khắc phục:

Cha mẹ nên đưa con của họ chơi với những bạn bè, những đứa trẻ hàng xóm cùng lứa ít nhất một – hai lần một tuần, khuyến khích trẻ kết bạn trong khi học ở lớp, ở trường và nói với bạn bè là trẻ có thể mời bạn bè về nhà để bố mẹ có thể biết những người bạn của trẻ.

2/ Những tác động tích cực:

Công nghệ ngày nay tiến bộ rất nhiều xuất phát từ những thành công trong nghiên cứu khoa học – kỹ thuật giúp cho các thế hệ trẻ ngày một tiếp cận với những thành tựu công nghệ. Những sản phẩm công nghệ cao ngày nay như điện thoại thông minh, laptop thế hệ mới với nhiều tính năng vượt trội, các nguồn thông tin, các kiến thức từ các trang web công nghệ trên Internet,…luôn tạo ra sự phấn khích cho các thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của chúng ta nắm bắt nhiều hơn vào sức mạnh công nghệ, từ đó làm tiền đề cho sự phát triển khả năng, tư duy và sáng tạo hơn cho trẻ trong quá trình học tập. Nhờ đó, trẻ được khuyến khích để tạo ra nhiều sáng kiến mới hơn và tốt hơn.

Từ khi máy tính đầu tiên được bán trên thị trường, người tiêu dùng đã đón nhận và xem đó là một điều mới lạ, xa xỉ hay vô bổ. Tuy nhiên, qua nhiều năm tháng phát triển, hôm nay máy tính là công cụ giảng dạy, học tập rất quan trọng với mọi người. Các hãng công nghệ lớn dần hình thành và cho ra nhiều sản phẩm có ích, gần gũi với cuộc sống, cả phần cứng lẫn phần mềm. Tất cả những thiết bị này được thiết kế cho việc giải trí và học tập, kích thích trẻ tìm hiểu những điều mới lạ, cập nhật những kiến thức mới; từ đó việc học tập của trẻ sẽ thuận lợi hơn.

Lớp trẻ hôm nay sẽ là những nhà lãnh đạo của ngày mai của một đất nước và công nghệ cung cấp một nền tảng rất lớn cho trẻ để tập đưa ra kế hoạch cho công việc hằng ngày, học tập, nghỉ ngơi, tập thể dục,…Công nghệ là một phần không thể thiếu cho sự tiến bộ trong suy nghĩ và tư duy của trẻ. Sử dụng tiện ích công nghệ và sáng tạo giúp chuẩn bị cho một tương lai không thể phủ nhận về mặt kỹ thuật đối với trẻ em.

Mặc dù những hạn chế, nhưng không phải tất cả thiết bị công nghệ và công dụng của chúng đều xem là tiêu cực. Trong thực tế công nghệ đã rõ ràng làm tăng chất lượng cuộc sống bằng nhiều cách khác nhau.

Công nghệ cung cấp cho trẻ em một cảm giác “tự thân vận động” và cung cấp trẻ em với các “công cụ” cần thiết để giải quyết vấn đề. Một số người cho rằng các thiết bị điện tử chỉ làm cho trẻ thêm ỷ lại và thụ động nhưng đó là về mặt lý thuyết, điều này sẽ không xảy ra trừ phi công nghệ được sử dụng quá mức và được lạm dụng khi trẻ dùng trong những thời gian cần sự nghỉ ngơi, nội dung không tốt.

Công nghệ, đặc biệt là Internet, cung cấp một số lượng lớn các kiến thức và trẻ em có quyền truy cập để tiếp thu nhiều thông tin này. Phần mềm máy tính, thiết kế đặc biệt cho việc học tập, cũng có thể là một công cụ tuyệt vời để sử dụng trong học tập phát triển và sáng tạo.

Trò chơi video cung cấp nhiều cách cho trẻ em: chẳng hạn như làm việc theo nhóm và chia sẻ thông tin với nhau. Không loại trừ khả năng trẻ phải vận động liên tục và có sự phối hợp tay-mắt do sự chuyển động cần thiết để có hiệu quả điều hướng một con chuột hoặc chơi một trò chơi video.

Tổng kết:

Chìa khóa để cân bằng những tác động tích cực và tiêu cực của công nghệ đối với trẻ em là sự điều độ. Nếu cha mẹ cho phép con cái của mình sử dụng tốt, khai thác tối đa kỹ năng của trẻ và hấp thụ những lợi ích của công nghệ đồng thời giảm thiểu tiếp xúc với các mặt chưa tốt của công nghệ thì đó là một điều tuyệt vời trong việc nuôi dạy trẻ.

Cha mẹ cũng có thể sử dụng công nghệ để nâng cao kinh nghiệm dạy và học, tạo ra tác động tích cực lên tư duy khi trẻ còn bé. Chúng ta cần phải hướng dẫn con cái hướng tới tương lai bởi vì, sau khi tất cả, bất cứ điều gì tác động từ công nghệ đều là những yếu tố quyết định, định hình thế hệ sắp tới của xã hội trong tương lai.

Mạng Máy Tính Là Gì? Lợi Ích Khi Sử Dụng Mạng Máy Tính

1. Mạng máy tính là gì?

Hệ thống mạng hay mạng máy tính (tiếng Anh: computer network hay network system) là sự kết hợp các máy tính lại với nhau thông qua các thiết bị nối kết mạng và phương tiện truyền thông (giao thức mạng, môi trường truyền dẫn) theo một cấu trúc nào đó và các máy tính này trao đổi thông tin qua lại với nhau.

Lợi ích của hệ thống mạng máy tính?

– Chia sẻ tập tin của bạn cho những người dùng khác

– Xem, chỉnh sửa và sao chép các tập tin trên một máy tính khác một cách dễ dàng như đang thao tác với một đối tượng trên máy tính của chính mình.

– Các máy tính, thiết bị trong cùng một hệ thống mạng có thể dùng chung các tài nguyên như: máy in, máy fax, máy tính thiết bị lưu trữ (HDD, FDD và ổ đĩa CD), webcam, máy quét, modem và nhiều thiết bị khác.

– Ngoài ra, những người dùng tham gia mạng máy tính cũng có thể chia sẻ các tập tin, các chương trình trên cùng một mạng đó.

2. Các loại hệ thống mạng máy tính

Có 4 loại chính có thể kể đến là: LAN, WAN, INTRANET, SAN. Cụ thể như sau:

Mạng LAN

– Mạng LAN thường được sử dụng trong một doanh nghiệp để cung cấp kết nối Internet cho tất cả những người cùng ở một không gian với một kết nối Internet duy nhất.

– Tất cả các thiết bị Internet có khả năng được cấu hình như các nút trong một mạng LAN và có thể được kết nối với Internet thông qua một máy tính riêng.

– Các máy tính trong mạng LAN cũng được sử dụng để kết nối các máy trạm văn phòng để cấp quyền truy cập vào máy in.

– Tuy nhiên, mạng máy tính LAN chỉ có mức độ phủ sóng trong một phạm vi rất nhỏ chỉ ở 1 tòa nhà.

Mạng WAN

– Khác hoàn toàn với LAN, mạng WAN có thể bao gồm một khu vực địa lý rộng lớn, vượt biên giới quốc gia hay quốc tế.

– Một mạng WAN được thực hiện bằng cách sử dụng đường dây thuê bao được cung cấp bởi một nhà cung cấp dịch vụ hoặc bằng cách sử dụng các gói mạng chuyển mạch về truyền dữ liệu.

Mạng INTRANET

– Đây là một mạng nội bộ mở rộng, về cơ bản nó là một mạng máy tính mà người dùng từ bên trong công ty có thể tìm thấy tất cả các nguồn lực của mình mà ko phải ra ngoài công ty khác

– Mạng INTRANET có thể bao gồm các mạng LAN, WAN và MAN

Mạng SAN

– Mạng SAN (hay còn được gọi là mạng lưu trữ) cung cấp một cơ sở hạ tầng tốc độ cao để di chuyển dữ liệu giữa các thiết bị lưu trữ và máy chủ tập tin.

– Hiệu suất của mạng SAN rất nhanh, có sẵn các tính năng dự phòng, khoảng cách giữa các máy trong mạng SAN có thể lên đến 10 km

– Mức chi phí cực thấp nhưng lại mang trong mình hiệu quả khá cao, lựa chọn tối ưu cho các doanh nghiệp.

Bài 1: Từ Mạng Máy Tính Đến Mạng Máy Tính

Mạng máy tính là gì? Hãy nêu các lợi ích của mạng máy tính?

Trả lời:

* Mạng máy tỉnh là tập hợp các máy tính được kết nối với nhau cho phép dùng chung các tài nguyên như dữ liệu, phần mềm, các thiết bị phần cứng,…

* Các lợi ích cùa mạng máy tính, đó là:

– Dùng chung dữ liệu: có thề sao chép dữ liệu từ máy này sang máy khác hoặc lưu dữ liệu tập trung ở máy chủ, từ đó người dùng trên mạng có thể truy cập đến khi cần thiết;

– Dùng chung các thiết bị phần cứng: Chia sẻ máy in, bộ nhớ, các ổ đĩa và nhiều thiết bị khác để người dùng trên mạng có thề dùng chung;

– Dùng chung các phần mềm: Có thể cài đặt phần mềm lên máy tính để người dùng trên mạng dùng chung. Nó sẽ giúp tiết kiệm đáng kể;

– Trao đổi thông tin: Có thể trao đổi thông tin giữa các máy tính thông qua thư điện từ (e-mail) hoặc phần mềm trò chuyện trực tuyến (chat).

Câu 2. Trang 10 Sách Giáo Khoa (SGK) Tin Học 9

Mạng máy tính có mấy thành phần cơ bản? Các thành phần đó là gì?

Trả lời:

Các thành phần cơ bản cỉa mạng máy tính:

– Các thiết bị đầu cuối như máy tính, máy in,… kết nối với nhau tạo thành mạng;

– Môi trường truyền dẫn (các loại dây dẫn, sóng điện từ, bức xạ hồng ngoại, sóng truyền qua vệ tinh,…) cho phép các tín hiệu truyền qua đó;

– Các thiết bị kết nối mạng (hay gọi là thiết bị mạng: môđem, hub, switch,…) cùng môi trường truyền dẫn có nhiêmh vụ kết nối các thiết bị đầu cuối trong phạm vi mạng

– Giao thức truyền thông (protocol) là tập hợp các quy tắc quy định cách trao đổi thông tin giữa các thiết bị gửi và nhận dữ liệu trên mạng.

Câu 3. Trang 10 Sách Giáo Khoa (SGK) Tin Học 9

Tiêu chí nào được dùng để phân biệt mạng Lan và Wan?

Trả lời:

Các tiêu chí được dùng để phân biệt mạng LAN và mạng WAN đó là:

– Dựa trên phạm vi địa lí

+ Mạng LAN là mạng mà hệ thống máy tính được kết nối trong phạm vi hẹp như một văn phòng, tòa nhà,…

+ Mạng WAN là mạng mà hệ thống máy tính được kết nói trong phạm vi rộng như phạm vi một tỉnh, khu công nghiệp, một quốc gia hay có quy mô toàn cầu.

Câu 4. Trang 10 Sách Giáo Khoa (SGK) Tin Học 9

Hãy cho biết sự giống nhau và khác nhau giữa mạng có dây và mạng không có dây

Trả lời:

– Giống nhau:

Mạng LAN và WAN đều là hai mạng được phân loại theo phạm vi địa lí. Từ đó ta nhận thấy rằng, mạng LAN là mạng kết nối những máy tính ở gần nhau, còn WAN kết nối những máy tính ở cách xa nhau một khoảng cách lớn và thông thường liên kết các mạng LAN.

– Khác nhau

Khoảng cách Địa lí

Các máy tính và thiết bị gần như trong cùng một căn phòng, tòa nhà,.. (khoảng cách < 200m trở lại)

Các máy tính và thiết bị có thể ở các thành phố, đất nước khác nhau, khắp lục địa kết nối với nhau (khoảng cách hàng nghìn km)

Số lượng máy

Vài chục máy tính và thiết bị được kết nối với nhau

Hàng chục nghìn máy tính và thiết bị được kết nối với nhau

Công nghệ truyền thông

Thực hiện công nghệ truyền thông cao cấp, đó là công nghệ tương tự, công nghệ số, công nghệ chuyển mạch gói,…

Câu 5. Trang 10 Sách Giáo Khoa (SGK) Tin Học 9

Hãy nêu một số thiết bị có thể kết nối vào mạng để trở thành tài nguyên dùng chung?

Trả lời:

Một số thiết bị có thể kết nối vào mạng để trở thành tài nguyên dùng chung đó là: máy in mạng, bộ nhớ, các ổ đĩa,…

Câu 6. Trang 10 Sách Giáo Khoa (SGK) Tin Học 9

Hãy cho biết sự khác nhau về vai trò của máy chủ và máy trạm trong mạng máy tính

Trả lời:

Sự khác nhau về vai trò của máy chủ với máy trạm trên mạng máy tính:

Máy chủ ( Server): Là máy có cấu hình mạnh, được cài đặt các chương trình dùng để điều khiển toàn bộ việc quản lí và phân bổ các tài nguyên trên mạng với mục đích dùng chung

Máy trạm (Client, Workstation ): Là máy sử dụng tài nguyên của mạng do máy chủ cung cấp

a) Năm máy tính cá nhân và một máy in trong một phòng được nối với nhau bằng dây cáp mạng để dùng chung máy in.

b) Một máy tính ở Hà Nội kết nối với một máy tính ở Thành phố Hồ Chí Minh để có thể sao chép các tệp và gửi thư điện tử.

c) Hơn 100 máy tính ở ba tầng liền nhau của một tòa nhà cao tầng, được nối với nhau bằng dây cáp mạng để chia sẻ dữ liệu và máy in.

Trả lời:

a, Mạng Lan

b, Mạng Wan

c, Mạng Wan

chúng tôi

Xung Đột Lợi Ích, Giải Quyết Xung Đột, Ví Dụ

Xung đột là một cuộc đối đầu nảy sinh giữa những người tham gia vào quá trình giao tiếp do sự khác biệt về thái độ, thái độ, sở thích, niềm tin, giá trị, mục tiêu. Xung đột được coi là cách gay gắt nhất để giải quyết cuộc đối đầu. Nó bao gồm việc chống lại các bên và thường đi kèm với những cảm xúc tiêu cực, những hành động vượt ra ngoài những chuẩn mực được chấp nhận chung. Đối đầu là không thể tránh khỏi trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. Do đó, cần nghiên cứu các phương pháp giải quyết xung đột để giảm tác động phá hoại của chúng và giảm thiểu rủi ro về hậu quả tiêu cực.

Xung đột lợi ích

Xung đột lợi ích, nó là gì?

Xung đột lợi ích đề cập đến mâu thuẫn nảy sinh giữa lợi ích cá nhân của cá nhân và nhiệm vụ chuyên môn, quyền hạn chính thức của mình. Sự hiện diện của một mâu thuẫn như vậy có thể ảnh hưởng đến sự công bằng và vô tư của việc ra quyết định, hành động hoặc không hành động trong việc thực hiện các mô tả công việc, quyền hạn chính thức và nhiệm vụ chuyên môn.

Xung đột về các ví dụ về lợi ích có thể được quan sát không chỉ khi một quan chức thực hiện dịch vụ công cộng, mà cả khi làm việc trong doanh nghiệp tư nhân. Trong trường hợp này, xung đột lợi ích sẽ được gọi là mâu thuẫn xảy ra khi một cá nhân hoặc toàn bộ tổ chức hoạt động đồng thời theo nhiều hướng khác nhau và nhiệm vụ của các lĩnh vực hoạt động này khác nhau.

Xung đột lợi ích. Một ví dụ về điều này có thể được tìm thấy trong lĩnh vực chuyên nghiệp ở mọi bước trong tình huống lợi ích cá nhân của nhân viên mâu thuẫn với lợi ích và mục tiêu của doanh nghiệp mà anh ta làm việc. Các tình huống làm phát sinh xung đột lợi ích được quan sát ở khắp mọi nơi. Họ phát sinh giữa các thành viên cùng lớp, những người tham gia vào các mối quan hệ gia đình, trong các nhóm cùng chí hướng, giữa các đồng nghiệp. Các cuộc đối đầu dựa trên sự đối đầu về mục tiêu của những người tham gia tương tác có thể xuất hiện bất kể sự thù địch giữa các cá nhân. Trong mọi trường hợp, một hiện tượng như xung đột lợi ích phải được chấm dứt ngay lập tức, vì nó dẫn đến sự xâm phạm lợi ích của toàn bộ tổ chức.

Ngoài ra, các tình huống đối đầu có thể phát sinh khi quỹ bị giới hạn để đạt được các mục tiêu dự định. Lợi ích quá mức mâu thuẫn với sự khan hiếm các nguồn lực cần thiết để đáp ứng nhu cầu tập thể và cá nhân.

Vì vậy, trả lời từ quan điểm pháp lý của câu hỏi về xung đột lợi ích, đó là gì, chúng ta có thể rút ra định nghĩa sau đây.

Nhìn chung, xung đột lợi ích trong lĩnh vực khởi nghiệp được đặc trưng bởi sự hiện diện của ba thành phần khách quan: tính hai mặt của nhu cầu, thiệt hại lớn, hành động sai trái hoặc che giấu và kết nối khách quan giữa chúng.

Thông thường, xung đột lợi ích xảy ra:

– như một sự phản đối cá nhân về lợi ích và như một xung đột lợi ích của tổ chức;

– trong tình huống lợi ích cá nhân của cá nhân, chẳng hạn như: tài sản tài chính tư nhân và các mối quan hệ nghề nghiệp bên ngoài tổ chức, tham gia vào một cuộc đối đầu tưởng tượng hoặc thực sự với các nhiệm vụ mà anh ta thực hiện, được gọi là xung đột lợi ích cá nhân. Xung đột tổ chức xảy ra khi: một tổ chức không thể cung cấp dịch vụ một cách khách quan do các hoạt động khác;

– sự vô tư của tổ chức bị vi phạm hoặc có thể bị vi phạm trong việc thực hiện các nghĩa vụ được giao cho nó;

– tổ chức này có lợi thế cạnh tranh quá lớn.

Xung đột lợi ích. Một ví dụ là như sau. Sự không tương thích về lợi ích thường được quan sát thấy trong dịch vụ công cộng, khi một cá nhân có trách nhiệm đưa ra quyết định sử dụng vốn ngân sách có bất kỳ mối quan hệ nào với một công ty, doanh nghiệp, tổ chức là một trong những ứng cử viên nhận được các khoản tiền đó trong trường hợp đấu thầu cạnh tranh.

Giải quyết xung đột lợi ích được coi là một trong những nhiệm vụ chính của các cơ chế chống tham nhũng, đồng thời, là một phương tiện để đảm bảo tiến trình quan hệ chính thức.

Ngày nay, khi tạo ra một mô hình hành vi của công ty, nhiều doanh nghiệp thương mại bao gồm một mô tả về những xung đột có thể có của nhu cầu và cách để ngăn chặn chúng. Trong số các tình huống tiềm năng phổ biến nhất của cuộc đối đầu là:

– tiết lộ cho các công ty cạnh tranh (quan tâm), các công ty thông tin bí mật của công ty;

– sử dụng các cơ hội mà tổ chức cung cấp để gây bất lợi cho tổ chức này vì mục đích hiện thực hóa các mục tiêu và lợi ích của chính mình;

– việc thông qua các khoản vay và thuyết trình từ khách hàng hoặc nhà cung cấp, dẫn đến sự xuất hiện của một số nghĩa vụ mâu thuẫn với các nhiệm vụ và nhu cầu của tổ chức;

– liên lạc với các công ty, khách hàng hoặc nhà cung cấp cạnh tranh để có được lợi ích cho chính người thân hoặc họ hàng của họ.

Cần đặc biệt chú ý đến việc giải quyết xung đột lợi ích phát sinh trong dịch vụ công ở nước ngoài. Thực tiễn thế giới xem xét những mâu thuẫn như vậy dưới ba hình thức: gia đình trị, chủ nghĩa kronism và chủ nghĩa vận động hành lang nhúng.

Nepotism là việc cung cấp các bài đăng và vị trí cho các cá nhân mà người sử dụng lao động trong mối quan hệ gia đình và các mối quan hệ.

Cronism được tiết lộ trong việc bổ nhiệm công chức vào các chức vụ cao nhất của bạn bè, đối tác thân mật hoặc đồng nghiệp kinh doanh. Vận động hành lang tích hợp được quan sát thấy khi một đại diện của doanh nghiệp tư nhân có được một vị trí trong lĩnh vực dịch vụ công cộng mà anh ta thực hiện công việc kinh doanh của mình.

Giải quyết xung đột

Các nhà tâm lý học và nhà xung đột làm việc trong lĩnh vực tìm kiếm giải pháp để giải quyết các tình huống đối đầu đưa ra các phương pháp giải quyết xung đột sau đây.

Ở lượt đầu tiên, họ khuyên bạn không nên tiếp tục cuộc đối đầu. Các nhà lý luận xung đột đã đề xuất một cuộc thi đối đầu mở. Theo thỏa thuận sơ bộ, người chiến thắng trong một cuộc thi như vậy được đưa ra đối tượng xung đột, và bên thua cuộc phải tự nguyện từ bỏ quyền sở hữu đối tượng của cuộc đối đầu. Tùy chọn này được coi là một trong những chấp nhận được nhất.

Các nhà tâm lý học cũng khuyên không nên bắt đầu một cuộc cãi vã, nhưng cố gắng đồng ý về một sự hợp tác hiệu quả, kết quả của nó sẽ là sự chiếm hữu bình đẳng của tất cả các bên của đối tượng xung đột.

Một cách riêng biệt, các phương pháp giải quyết xung đột lợi ích phát sinh từ dịch vụ trong các cơ quan nhà nước nên được nêu rõ. Bốn phương pháp như vậy được phân biệt: chủ động, tiết lộ, từ chối tự nguyện, giám sát.

Phương pháp phòng ngừa là ngăn chặn sự xuất hiện của xung đột lợi ích. Phương pháp này được coi là hiệu quả nhất trong việc chống tham nhũng. Một ví dụ về phương pháp được mô tả là sự từ chối của quan chức được bổ nhiệm vào chức vụ từ phần vốn của doanh nghiệp.

Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, các tổ chức được ủy quyền đặc biệt nhằm chống tham nhũng được giám sát. Các tổ chức như vậy giám sát việc tuân thủ các yêu cầu của khung pháp lý, các yêu cầu đối với hành vi của các quan chức và giải quyết xung đột lợi ích.

Giải quyết mâu thuẫn một cách có thẩm quyền và kịp thời là chìa khóa cho sức khỏe tinh thần của mọi người, vì bất kỳ cuộc đối đầu nào cũng làm nảy sinh mâu thuẫn, phân đôi, bất hòa trong đội. Đồng thời, xung đột cũng là điều kiện cần thiết để hợp nhất nhóm và đưa nó đến một vòng phát triển mới có chất lượng.

Quản lý xung đột được coi là một kỹ năng quan trọng cho một nhà lãnh đạo thành công. Thật vậy, như họ nói, sự thiếu hiểu biết về các khía cạnh của quản lý xung đột trong nhóm không làm giảm trách nhiệm của các ông chủ.

Các cuộc đối đầu trong các tổ chức được phân loại theo định hướng và theo chiều ngang, dọc và hỗn hợp.

Xung đột ngang được gây ra bởi cạnh tranh và so sánh. Dọc – quan sát giữa các cá nhân là cấp dưới, nghĩa là giữa cấp trên và cấp dưới. Đối đầu hỗn hợp, tương ứng, là cả đối đầu dọc và ngang.

Có thể giải quyết xung đột giữa người lãnh đạo và cấp dưới, trong nhóm:

– công nhận thực tế về sự tồn tại của một tình huống đối đầu, sự hiện diện của một người tham gia đối lập và yêu sách của anh ta;

– một ý tưởng rõ ràng về nội dung của các lợi ích xung đột;

– chuẩn bị đối thủ cho việc áp dụng các chuẩn mực chung về hành vi.

Đối với mỗi nhà lãnh đạo, nếu anh ta quan tâm đến sự thịnh vượng của tổ chức của mình, điều rất quan trọng là môi trường tâm lý trong nhóm có ảnh hưởng có lợi đến bản chất và chất lượng của công việc tập thể của nhân viên.

Ngày nay, một trong những điều kiện chính cho người lãnh đạo Hoạt động hiệu quả của nhà lãnh đạo được coi là nhận thức tâm lý xã hội của anh ta, tạo nên sự chuẩn bị và năng lực xung đột.

Năng lực xung đột, giải quyết xung đột có thẩm quyền và hiệu quả giữa người lãnh đạo và cấp dưới, trong nhóm bao gồm:

– Nhận thức về bản chất của sự va chạm, bất đồng, xung đột giữa các chủ thể;

– phát triển thái độ xây dựng giữa bản thân và nhân viên đối với những mâu thuẫn trong tổ chức;

– Sở hữu kỹ năng giao tiếp không xung đột trong các tình huống khó khăn;

– khả năng phân tích và giải thích các tình huống vấn đề mới nổi;

– khả năng phát triển các nguyên tắc hữu ích của các cuộc đối đầu mới nổi;

– sự hiện diện của các kỹ năng để quản lý các hiện tượng đối đầu;

– khả năng lường trước hậu quả có thể xảy ra của xung đột;

– sự hiện diện của các kỹ năng để loại bỏ các hậu quả tiêu cực của mâu thuẫn;

– khả năng quản lý xây dựng va chạm, cãi vã, tranh chấp và xung đột.

Giải quyết xung đột buộc các nhà lãnh đạo phải đóng vai trò là bên thứ ba. Nói cách khác, ông chủ là một người trung gian tìm cách khôi phục sự cân bằng tâm lý trong đội. Các hoạt động của nhà lãnh đạo với tư cách là một trung gian bao gồm đánh giá và phân tích tình hình, cũng như trực tiếp giải quyết xung đột.

Phân tích và đánh giá tình huống đối đầu bao gồm lấy thông tin về đối tượng va chạm, thu thập thông tin về nó, kiểm tra dữ liệu thu được, xác minh độ tin cậy của chúng, phân tích tình huống xung đột.

Quá trình giải quyết mâu thuẫn bao gồm lựa chọn phương tiện để giải quyết, như hòa giải, thực hiện phương pháp đã chọn, sàng lọc dữ liệu và quyết định, giảm hoặc loại bỏ căng thẳng sau xung đột trong quan hệ của đối thủ, phân tích kinh nghiệm trong quản lý xung đột.

Tuy nhiên, vấn đề cấp bách nhất hiện nay không phải là giải quyết xung đột trong lĩnh vực chuyên môn, mà là khả năng giải quyết những bất đồng nảy sinh trong môi trường thiếu niên.

Trong nhiều năm, các nhà tâm lý học, nhà xã hội học đã nghiên cứu các vấn đề của tuổi dậy thì, nhưng cho đến ngày nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Tuổi vị thành niên được coi là độ tuổi gây tranh cãi nhất và đặc biệt nhạy cảm. Khi trẻ đến tuổi dậy thì, chúng cố gắng sống tách biệt với người lớn, chúng tạo ra một văn hóa nhóm đặc biệt dựa trên những chuẩn mực nhất định, nguyên tắc đạo đức, niềm tin. Nó được đặc trưng bởi các hình thức cụ thể của hành vi, quần áo đặc biệt, một ngôn ngữ đặc biệt, biểu tượng ban đầu, thuộc tính và nghi lễ. Văn hóa nhóm này là không thể hiểu được đối với người lớn, những người coi thanh thiếu niên là trẻ em không thể đưa ra quyết định độc lập và có cảm xúc nghiêm trọng. Hiểu lầm của người lớn là một trong những thành phần chính của sự bất đồng trong môi trường thiếu niên.

Xung đột đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành các phẩm chất mới của nhân vật và trong sự biến đổi cá nhân.

Tương tác xung đột ở tuổi dậy thì xảy ra theo ba hướng: một thiếu niên – một thiếu niên, một thiếu niên – cha mẹ và một thiếu niên – giáo viên.

Trong số thanh thiếu niên, tương tác xung đột dựa trên sự đối đầu, mục tiêu của nó là lãnh đạo. Ở đây, các yếu tố chính của một phong cách hành vi mâu thuẫn là địa vị, mức độ yêu sách ( tham vọng ) và lòng tự trọng .

Do đó, chúng ta có thể rút ra một thuật toán duy nhất để giải quyết các xung đột trường học:

– trong lượt đầu tiên, cần phải giữ bình tĩnh;

– thứ hai, cần phân tích các tình huống không có thăng trầm;

– thứ ba, điều quan trọng là duy trì một cuộc đối thoại cởi mở giữa các đối thủ, để có thể lắng nghe phía đối lập, bình tĩnh nêu quan điểm của riêng bạn về vấn đề;

– thứ tư, cần phải khám phá các mục tiêu và phương pháp chung để giải quyết vấn đề, điều này sẽ cho phép chúng ta đi đến những mục tiêu này;

– thứ năm, bắt buộc phải dự trữ các kết quả sẽ cho phép chúng tôi tránh các cuộc đụng độ tương tự trong tương lai.

Giải quyết xung đột ở tuổi thiếu niên có thể đạt được theo ba cách: đàn áp, nhượng bộ (thỏa hiệp) và hợp tác.

Trái với niềm tin phổ biến, việc giải quyết xung đột ở tuổi vị thành niên thông qua sự đàn áp không phải lúc nào cũng quá tệ. Ví dụ, trong những tình huống cực kỳ khó khăn. Ức chế bao gồm việc đặt trách nhiệm lên vai của chính mình theo nghĩa tích cực của nó. Tuy nhiên, việc lạm dụng phong cách quản lý xung đột này dẫn đến sự phát triển của sự phục tùng do sợ hãi , cay đắng, bí mật và không có khả năng đưa ra quyết định.

Một cách thỏa hiệp để giải quyết quá trình xung đột là sự nhượng bộ lẫn nhau.

Phương pháp giải quyết các bất đồng thông qua hợp tác dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau của các bên, kỹ năng giao tiếp và các quyết định mang tính xây dựng.

Giải quyết xung đột ở tuổi thiếu niên cũng có thể đạt được bằng các kỹ thuật sau:

– cách tiếp cận sáng tạo (biến vấn đề thành cơ hội tiềm năng cho bản thân);

– tự khẳng định tối ưu, bao gồm tấn công một vấn đề cụ thể, và không phải trên cá nhân;

– quản lý cảm xúc;

– phát triển các lựa chọn thay thế;

– lập kế hoạch hiệu quả, phát triển các lựa chọn cho chiến lược (đàm phán);

– trung gian.

Giải quyết xung đột

Cho dù mọi người cố gắng tránh đụng độ như thế nào trong cuộc sống hàng ngày, điều này là không thể. Xung đột là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Do đó, cần nghiên cứu các cơ chế phát sinh mâu thuẫn, để biết các hướng có thể của quá trình và sự phát triển của các cuộc đối đầu, và cũng để biết cách ngăn chặn và giải quyết chúng.

Việc lựa chọn phương pháp ngăn chặn và quản lý cuộc đối đầu được xác định bởi sự ổn định về cảm xúc của cá nhân, phương tiện sẵn có để bảo vệ lợi ích của một người khác, số lượng quyền hạn có sẵn và một số yếu tố khác.

Ngoài ra, bạn cần hiểu rằng việc giải quyết xung đột phụ thuộc vào phương pháp giải quyết xung đột được chọn.

Một ví dụ về xung đột và giải pháp của nó trong các mối quan hệ gia đình. Trong một gia đình của cặp vợ chồng mới cưới sống trên lãnh thổ của cha mẹ của một trong các bên, nảy sinh mâu thuẫn giữa hai vợ chồng vì những bất đồng về cuộc sống gia đình: người đàn ông tin rằng vợ / chồng nên làm tất cả việc nhà vì cô ta là phụ nữ. Ngược lại, người phối ngẫu tin rằng cả hai đối tác nên tham gia vào các hoạt động gia đình, tùy thuộc vào khối lượng công việc và thời gian rảnh rỗi. Nếu vợ chồng chọn một mô hình hành vi phá hoại trong một vụ va chạm, thì cha mẹ sống với họ cũng sẽ tham gia vào cuộc đối đầu, do đó mâu thuẫn có thể đạt đến tỷ lệ như vậy mà không thể giải quyết mà không mất.

Một giải pháp mang tính xây dựng cho xung đột là có thể theo thuật toán phổ quát sau đây. Bước đầu tiên trong việc giải quyết một vấn đề cấp bách là thiết lập một bầu không khí tin cậy có lợi cho sự hợp tác. Nói cách khác, nếu người vợ bắt đầu cuộc trò chuyện bằng một tiếng khóc hoặc trách móc, không chắc họ có thể giải quyết một cách xây dựng mâu thuẫn. Giai đoạn tiếp theo là sự phối hợp trong nhận thức của đối thủ. Ở đây, một trong các bên tham chiến phải đồng ý với lập luận của bên kia, ít nhất là một phần. Nếu không, phía bên kia sẽ không muốn lắng nghe các đối số của đối thủ. Sự đồng ý, thậm chí một phần, sẽ làm giảm mong muốn của phía đối lập để chứng minh sự vô tội của chính họ và tăng mong muốn lắng nghe người đối thoại. Sau khi cả hai bên xung đột lắng nghe những tranh luận của nhau và đồng ý một phần với họ, chúng ta có thể tiến hành giai đoạn tiếp theo – điều phối lợi ích của đối thủ (tìm kiếm sự thỏa hiệp). Giai đoạn thứ tư là việc thông qua các quyết định nhằm giải quyết xung đột và tính đến lợi ích của cả hai bên tham gia. Trong trường hợp này, cần phải phân chia công việc gia đình hàng ngày giữa vợ hoặc chồng hoặc phân chia công việc gia đình theo ngày trong tuần. Bước cuối cùng là thực hiện các thỏa thuận đạt được.

Lượt xem: 29 051