Top 8 # Xem Nhiều Nhất Lợi Ích Quốc Gia Lợi Ích Dân Tộc Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Comforttinhdauthom.com

Lợi Ích Quốc Gia, Dân Tộc Là Bất Biến

“Thuận lợi và khó khăn, thách thức luôn luôn là 2 mặt đối lập nhưng không bao giờ tách rời nhau của bất kỳ một quá trình phát triển nào, như một cái cây có đất tốt sẽ phát triển, nhưng lá non quả ngọt của nó sẽ là miếng mồi hấp dẫn cho sâu bọ và chim thú”- Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh chia sẻ cùng Tiền Phong.

Khi nói về tình hình hiện nay, ông cho rằng, hơn lúc nào hết chúng ta cần tỉnh táo, thấm nhuần tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và kiên định phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Cái bất biến là lợi ích quốc gia, dân tộc – trong đó độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là bộ phận cốt yếu…

Dĩ bất biến, ứng vạn biến Nhìn lại thành công của Cách mạng tháng Tám và cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền non trẻ ngay sau ngày đất nước giành độc lập giai đoạn 1945-1946, theo ông, yếu tố nào làm nên sức mạnh dân tộc để chúng ta đưa đất nước vượt qua hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” khi đó, đặc biệt là chính sách ngoại giao đóng vai trò ra sao trong bối cảnh khó khăn giai đoạn này?

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh yếu tố quan trọng nhất tạo nên sức mạnh dân tộc là truyền thống yêu nước nồng nàn, khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do và ý chí quật cường chống ngoại xâm của nhân dân ta.

Từ khi có Đảng có Bác Hồ, lòng yêu nước đó lại được nhân lên gấp bội tạo nên ý chí quật cường đưa dân tộc Việt Nam ngẩng cao đầu quyết không khuất phục bất kỳ thực dân, đế quốc hoặc kẻ thù nào lăm le xâm phạm bờ cõi Tổ quốc ta.

Đây chính là nguyên nhân căn bản tập hợp và phát huy được sức mạnh của lòng yêu nước và đưa nhân dân ta đi theo đúng con đường dẫn tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, giành độc lập dân tộc thực sự. Nguyên nhân nữa, là tinh thần đoàn kết quật cường mạnh hơn bao giờ hết trong thời kỳ có Đảng có Bác Hồ.

Ngay trước thềm thắng lợi của cách mạng, Hội nghị Toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào đã đề ra chủ trương đối ngoại rất rõ ràng: “thân thiện với các nước coi trọng nền độc lập của Việt Nam”.

Đây chính tiền thân của đường lối “làm bạn với tất cả các nước” mà sau này chúng ta đã kế thừa và phát huy. Nhằm mục tiêu đối ngoại “đưa nước nhà đến tự do, độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn”, những sách lược ngoại giao phù hợp đã được vận dụng như: “hòa để tiến”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nguyên tắc “đặt lợi ích dân tộc lên trên hết” đã được nền ngoại giao nước nhà, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bác Hồ sử dụng một cách vô cùng mềm dẻo và linh hoạt.

Có thể nói giai đoạn 1945-1946 là thời điểm cực kỳ khó khăn, vận nước chông chênh nhất, song dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và đặc biệt là Bác Hồ, người đã khai sinh ra nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, đã có những đóng góp hết sức quan trọng vào cuộc đấu tranh bảo vệ và giữ gìn độc lập, tự do của dân tộc.

Bên cạnh những thuận lợi, nước ta đang phải đối mặt nhiều khó khăn, thách thức từ bên ngoài, thậm chí có những thời điểm chủ quyền và một bộ phận lãnh thổ của chúng ta bị đe dọa xâm phạm. Theo Bộ trưởng, phải giải quyết vấn đề này ra sao để một mặt vẫn bảo đảm được xu hướng hòa bình hợp tác nhưng mặt khác kiên định bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc?

Thuận lợi và thách thức luôn luôn là 2 mặt đối lập nhưng không bao giờ tách rời nhau của bất kỳ một quá trình phát triển nào như một cái cây có đất tốt sẽ phát triển, nhưng lá non quả ngọt của nó sẽ là miếng mồi hấp dẫn cho sâu bọ và chim thú.

Sự phát triển của bất kỳ nước nào, ở giai đoạn nào cũng đối mặt những cơ hội và thách thức. Thuận lợi có thể từ bên trong, bên ngoài, khó khăn cũng vậy.

Về những khó khăn và thách thức từ bên ngoài, Đại hội Đảng XI đã nhận định rất rõ ràng “thời cơ và thách thức đan xen”, vị thế mới của nước ta có “những thuận lợi và cơ hội to lớn cùng những khó khăn và thách thức gay gắt”.

Lịch sử đất nước đã bao lần bị giặc xâm lăng, một phần lãnh thổ thiêng liêng của đất nước vẫn còn bị nước ngoài chiếm đóng, chủ quyền lãnh thổ vẫn còn nguy cơ bị nước ngoài đe dọa xâm phạm, tạo nên một thách thức vô cùng to lớn đối với đất nước ta. Hơn lúc nào hết chúng ta cần tỉnh táo, thấm nhuần tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và kiên định phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Tôi rất mừng thấy thế hệ thanh niên ngày nay đang phát huy tốt truyền thống yêu nước của dân tộc. Lòng yêu nước đó cần phải được hun đúc bằng trí tuệ và kiến thức cùng nhiệt huyết để nó thể hiện bằng những đóng góp thực tế. Cơ hội để tiếp thu những tinh hoa từ môi trường quốc tế thuận lợi là rất lớn

Cái bất biến là lợi ích quốc gia, dân tộc – trong đó độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ là bộ phận cốt yếu. Cái vạn biến là linh hoạt trong hợp tác, khôn khéo trong đấu tranh, sâu sắc trong tạo dựng lợi ích đan xen nhằm bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, củng cố vững chắc chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa.

Xây dựng đất nước và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là 2 nhiệm vụ then chốt của Đảng và Nhà nước mà ngành ngoại giao cũng được giao phó tham gia. Đại hội Đảng XI đã chỉ rõ “nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ…”.

Xử lý vấn đề tranh chấp lãnh thổ sẽ được đặt trong nhiệm vụ và nguyên tắc này theo hướng phấn đấu cho hòa bình và ổn định, đối với các tranh chấp phải kiên trì biện pháp hòa bình, dựa vào luật pháp quốc tế để đối thoại, tìm ra giải pháp.

Luật pháp quốc tế là thành quả trí tuệ của xã hội văn minh hiện đại, mà tất cả các nước trên thế giới đều phải tôn trọng và tuân thủ một cách có trách nhiệm. Khi luật pháp quốc tế được thực thi một cách nghiêm túc, nguy cơ xung đột sẽ giảm, nền hòa bình vững chắc sẽ được bảo đảm hơn.

Ngọn hải đăng đảo Sinh Tồn. Ảnh: Nguyễn Huy.

Thông điệp hòa bình, hợp tác “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” là chủ trương đối ngoại lớn của Đại hội XI, xin Bộ trưởng cho biết thời gian qua Bộ Ngoại giao thực hiện chủ trương này như thế nào?

Đây là một thông điệp của Việt Nam gửi tới bạn bè quốc tế về đường lối đối ngoại hòa bình của Đảng và nhà nước ta. Thời gian qua, chủ trương này đã và đang được triển khai hiệu quả, được bạn bè đánh giá cao.

Thứ nhất, chính sách “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” đã được triển khai một cách toàn diện cả về bề rộng và chiều sâu. Chúng ta đã và đang làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước, trong đó trọng tâm là các nước láng giềng, khu vực và các đối tác lớn.

Hiện Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới, quan hệ đối tác chiến lược với 10 nước và quan hệ với nhiều nước khác cũng đang được nâng cấp và làm sâu sắc, thiết thực hơn.

Thứ hai, là thành viên tích cực, Việt Nam đang thể hiện vai trò là một nước có trách nhiệm và có nhiều đóng góp quan trọng cho tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN. Lần đầu tiên sau 17 năm gia nhập ASEAN, Việt Nam đã đề cử vào chức Tổng thư ký ASEAN cho nhiệm kỳ 2013-2018, thể hiện sự trưởng thành của chúng ta.

Năm 2008-2009, Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc vai trò UV không thường trực Hội Đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, đã chứng tỏ cho thế giới vai trò một nước Việt Nam hết sức có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.

Thứ ba, các vấn đề phức tạp nảy sinh trên biển đã được xử lý thỏa đáng một cách hòa bình, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bảo đảm môi trường hòa bình hợp tác phục vụ phát triển của đất nước, giữ vững hòa bình, ổn định trong khu vực, bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải.

Thứ tư, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn, ngoại giao đã tranh thủ tối đa hợp tác quốc tế và các nguồn lực bên ngoài để phục vụ phát triển và khắc phục những khó khăn kinh tế – xã hội trong nước; chúng ta đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), của 8 hiệp định thương mại tự do song phương.

Với tinh thần chủ động, tích cực, chúng ta đã tham gia và đang tiến hành đàm phán về Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), khởi động đàm phán hiệp định thương mại tự do (FTA) với một loạt các đối tác quan trọng như EU, Hàn Quốc, khối EFTA, Liên minh thuế quan Nga – Belarus- Kazakhstan.

Thanh niên là tương lai của mỗi quốc gia. Ông có gửi gắm điều gì đến các bạn trẻ trong việc thực hiện tốt đường lối ngoại giao của Đảng và Nhà nước cũng như nắm bắt thời cơ từ môi trường quốc tế để có những đóng góp thiết thực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc?

Thanh niên luôn luôn là nền tảng của tương lai. Những người chủ tương lai đó phải có kiến thức rộng lớn, toàn diện, có trí tuệ và bản lĩnh nhưng đồng thời phải kế thừa truyền thống tinh hoa của dân tộc.

Tôi rất mừng thấy thế hệ thanh niên ngày nay đang phát huy tốt truyền thống yêu nước của dân tộc. Lòng yêu nước đó cần phải được hun đúc bằng trí tuệ và kiến thức cùng nhiệt huyết để nó thể hiện bằng những đóng góp thực tế.

Cơ hội để tiếp thu những tinh hoa từ môi trường quốc tế thuận lợi là rất lớn. Thế hệ thanh niên cần phải tranh thủ cơ hội học tập để tiếp thu những kiến thức khoa học tiên tiến và văn minh. Tôi tin vào thế hệ trẻ thông minh, ham học, tràn đầy nghị lực và lòng yêu nước, sẽ là những người thực hiện tốt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Xin cảm ơn Bộ trưởng!

Lợi Ích Quốc Gia, Dân Tộc Là Trên Hết

Ngọc Việt

03/12/15 14:11

(GDVN) – Có thể thấy rằng, Tổng thống Thein Sein và các lãnh đạo quân đội Myanmar đã biết đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.

Ngày 2/12, tờ Telegraph của Anh đưa tin, lãnh tụ đảng Liên Đoàn Quốc gia vì Dân chủ Myanmar, bà Aung San Suu Kyi đã có cuộc gặp với Tổng Tư lệnh quân đội Myanmar, Đại tướng Min Aung Hlaing và Tổng thống Myanmar Thein Sein để bàn về việc chuyển giao quyền lực sau bầu cử.

Bà Aung San Suu Kyi và Tổng Tư lệnh quân đội Myanmar Đại tướng Min Aung Hlaing. Ảnh: AP

Như vậy, nền dân chủ tại Myanmar đã được nuôi dưỡng dưới thời của chính quyền Tổng thống Thein Sein đã đảm bảo cho một cuộc bầu cử diễn ra suôn sẻ, kết thúc trong hòa bình, và kết quả của nó là chiến thắng lịch sử cho NLD.

Nay nền dân chủ ấy lại tiếp tục được đảm bảo bởi quân đội, khi quyết định chuyển giao một cách êm thấm quyền lực cho chính phủ chuyển tiếp sau bầu cử.

Có thể thấy rằng, Tổng thống Thein Sein và các lãnh đạo quân đội Myanmar đã biết đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, nên đã tổ chức thành công cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên từ năm 1960 và quyết định tôn trọng kết quả bầu cử, dù đảng cầm quyền được quân đội hậu thuẫn chịu thất bại nặng nề.

Cũng cần nhắc lại lại là năm 1990, NLD cũng chiến thắng trong một cuộc tổng tuyển cử nhưng kết quả đã bị chính phủ quân sự lúc đó gạt bỏ, và lãnh tụ NLD Aung San Suu Kyi bị bắt, bị quản thức hơn 20 năm.

Vì vậy, có thể khẳng định đây là một chiến thắng mang tính quyết định cho nền dân chủ tại Myanmar.

Có nhiều người lo ngại nền dân chủ tại Myanmar có thể “chết yểu” vì nó làm suy giảm quyền lực của quân đội – lực lượng nắm quyền tại Myanmar mấy thập kỷ nay.

Nhưng với diễn biến mới nhất này, có thể thấy nền dân chủ ấy đã tiếp tục có sức sống để đảm bảo cho một xã hội dân chủ và tự do tại Myanmar – điều mà người dân Myanmar đã gửi gắm qua cuộc bầu cử vừa qua.

Tuy nhiên, một điều được nhiều người quan tâm là vai trò và vị thế của bà Aung San Suu Kyi sẽ như thế nào khi Hiến pháp Myanmar có những quy định khiến cho bà không thể trở thành Tổng thống Myanmar, mặc dù NLD của bà giành chiến thắng áp đảo và bà là lãnh tụ đảng.

Tổng thống Thein Sein và bà Aung San Suu Kyi. Ảnh: AP.

Cuộc gặp với lãnh đạo quân đội cho thấy, điều lo ngại này có thể được giải quyết sớm hơn, đáp ứng ý nguyện của người dân và cá nhân bà Aung San Suu Kyi.

Nhưng với 25 phần trăm số ghế Quốc hội dành riêng cho quân đội, họ sẽ có thể phản đối bất kỳ thay đổi nào của Hiến pháp. Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn gần đây, Đại tướng Min Aung Hlaing đã báo hiệu rằng quân đội có thể tạo điều kiện cho các thay đổi Hiến pháp vào những thời điểm cụ thể”.

“Chúng tôi không cứng nhắc về Hiến pháp, nhưng chúng ta cần tình hình chính trị ổn định và sự phát triển đất nước. Chúng ta cần phải thay đổi dần dần”, ông Min Aung Hlaing nói với tờ The Washington Post.

Cuộc bầu cử dân chủ diễn ra đã đáp ứng khát vọng của người dân Myanmar là sự đổi thay đất nước, kết quả cuộc bầu cử được chính quyền và quân đội cam kết tôn trọng đã đáp ứng nguyện vọng của người dân Myanmar là tiến trình dân chủ không bị đảo ngược.

Nay quân đội đảm bảo việc chuyển giao quyền lực một cách hòa bình cho chính phủ chuyển tiếp đã củng cố thêm niềm hy vọng ấy, nguyên tắc dân chủ và tự do sẽ định hình cho mọi sinh hoạt chính trị tại Myanmar.

Những ý nguyện của người dân Myanmar đã được những người lãnh đạo đất nước tiếp tục lắng nghe và đáp ứng, đã làm tăng thêm hy vọng vào một đất nước Myanmar sẽ hồi sinh và phát triển, làm thay đổi chất lượng cuộc sống cho người dân Myanmar trong tương lai.

http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Loi-ich-quoc-gia-dan-toc-la-tren-het-post163883.gd

Đặt Lợi Ích Quốc Gia, Dân Tộc Lên Trên Hết

(Thanhuytphcm.vn) – Hiện tại, trên một số diễn đàn, trang mạng xã hội, các phần tử quá khích đang tích cực kêu gọi người dân xuống đường, tụ tập đông người vào các ngày nghỉ cuối tuần, nhằm gây rối làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, cản trở giao thông, tạo sự bất ổn đến cuộc sống, sinh hoạt thường ngày của người dân.

Đây là thủ đoạn hết sức nguy hiểm của các thế lực thù địch nhằm kích động, chia rẽ tinh thần đoàn kết của dân tộc ta. Chúng lợi dụng sự mất cảnh giác của người dân để dụ dỗ hòng “mượn tay” gây rối, phá hoại, gây tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, tổn hại đến sự phát triển của đất nước.

Với nhiều chiêu trò, những kẻ phản động lợi dụng các diễn đàn, mạng xã hội để kêu gọi, cho tiền những ai đồng ý thực hiện hành vi xuống đường cầm băng rôn phản đối gây mất trật tự, hay trực tiếp dùng lời lẽ xuyên tạc để lôi kéo những người nhẹ dạ cả tin, thiếu hiểu biết, hoặc giở thủ đoạn đánh vào tâm lý những người có thu nhập thấp, có cuộc sống khó khăn để lừa gạt… Kết quả, chính những người bị lôi kéo, dụ dỗ sẽ chịu thiệt hại nặng nề nhất về mặt thể chất, tinh thần, ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, xã hội.

Vì vậy, người dân cần phải bình tĩnh, không nghe theo sự xúi giục, dụ dỗ của các thế lực phản động để thực hiện hành vi phạm pháp, hãy thể hiện lòng yêu nước một cách chân chính, hãy kêu gọi mọi người cùng nhau lên án những hành vi phạm pháp, phá hoại của kẻ xấu. Người yêu nước thật sự phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên tất cả. Những hành động sai trái sẽ bị nghiêm trị trước pháp luật.

Trước đó, vào các ngày 15 và 20/6/2018, Cơ quan CSĐT Công an TPHCM đã ra quyết định khởi tố, bắt tạm giam hai đối tượng để điều tra về hành vi gây rối trật tự an toàn xã hội. Tiếp theo sau đó vào ngày 20/6, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Bình Thuận đã ra quyết định khởi tố bị can đối với 8 đối tượng gây rối trật tự công cộng, hủy hoại tài sản và chống người thi hành công vụ xảy ra tại UBND tỉnh Bình Thuận vào tối ngày 10/6/2018 gây hậu quả nghiêm trọng. Tại cơ quan điều tra, các đối tượng này đã thừa nhận bị xúi giục, bị dụ dỗ để thực hiện những hành vi phạm pháp của mình và mong xã hội tha thứ.

Như vậy, để đập tan âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, mỗi người dân chúng ta hãy phát huy lòng yêu nước của mình, bình tĩnh, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Đặt trách nhiệm với Tổ quốc lên trên hết để không có những hành vi làm tổn hại đến sự bình yên, ổn định và phát triển đất nước.

Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Lợi Ích Quốc Gia Dân Tộc

Ngày đăng: 16/04/2016 03:13

Trong giai đoạn hiện nay, trước tình hình mới của đất nước và thế giới đã và đang đặt ra cho nước ta nhiều cơ hội và thách thức, bài học kinh nghiệm “Đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết” có ý nghĩa thời sự hơn bao giờ hết. Đây chính là cơ sở để Đảng ta tập hợp và phát huy nguồn lực toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

Vì lợi ích quốc gia dân tộc

Dân tộc và giai cấp là hai phạm trù có nội dung khác nhau và chỉ các quan hệ xã hội khác nhau. Mỗi phạm trù này có vai trò lịch sử riêng trong sự phát triển của xã hội, song chúng lại có quan hệ hữu cơ và tác động qua lại với nhau. Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong điều kiện lịch sử và những giai đoạn lịch sử nhất định còn được biểu hiện như hai mặt của một vấn đề, chúng tác động biện chứng với nhau trong một thể thống nhất của một quốc gia dân tộc. Giải quyết tốt mối quan hệ này là một trong những nhân tố bảo đảm thành công của cách mạng. Tuy nhiên, trong lịch sử phong trào cộng sản trên thế giới, đã có nơi, đã có lúc, đã có các tư tưởng tả khuynh, tuyệt đối hóa quan điểm giai cấp, đề cao lợi ích giai cấp hạ thấp vấn đề dân tộc, lợi ích dân tộc – nguyên tắc tối cao chi phối hoạt động thực tiễn của một quốc gia dân tộc – chỉ mang lại những kết quả tức thời, không bền vững và để lại những hậu quả nặng nề, khó khắc phục, làm tổn hại quốc gia dân tộc.

Có thể nói, sự thành công của cách mạng Việt Nam trong nửa thế kỷ vừa qua gắn liền với vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp.

Vấn đề dân tộc, ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết trên lập trường và theo quan điểm của một giai cấp nhất định. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin nhấn mạnh rằng, chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn được vấn đề dân tộc. Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nghiên cứu và hoạt động trong phong trào công nhân, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đề cập đến những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Từ thực tiễn cách mạng châu Âu năm 1848 và phong trào đấu tranh của các dân tộc, từ vị trí, vai trò và thái độ của các dân tộc trong cách mạng châu Âu, C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định: phong trào giải phóng dân tộc là một bộ phận hợp thành của đội quân cách mạng châu Âu, mở rộng trận địa cách mạng dân chủ tư sản và có vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực phong kiến. Trong quan niệm của mình, C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định mối quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen cho rằng, nếu xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ, khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp không còn nữa thì sự đối kháng giữa các dân tộc sẽ mất theo. Với quan điểm trên, C. Mác và Ph. Ăng-ghen muốn nhấn mạnh mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và nhân loại và để thực hiện thành công sự nghiệp này phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp.

Phát triển học thuyết do C.Mác và Ph. Ăng-ghen xây dựng trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, V. I. Lê-nin đã bổ sung, phát triển và làm phong phú thêm lý luận của C. Mác và Ph. Ăng-ghen thông qua thực tiễn cách mạng nước Nga. Ông đã sớm nhận thấy được mối quan hệ mật thiết trong việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, dân tộc và nhân loại trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Trong “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa”, V. I. Lê-nin nhấn mạnh tư tưởng phải kết hợp chặt chẽ phong trào cách mạng ở “chính quốc” với phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa; các nước làm cách mạng vô sản thành công phải giúp đỡ cách mạng ở các nước thuộc địa, nhất là các nước kinh tế lạc hậu, còn nhiều tàn tích phong kiến…

Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã đề cập đến vấn đề giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong tiến trình thực hiện cuộc cách mạng vô sản, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, hướng tới xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, do hạn chế của điều kiện lịch sử – xã hội, luận điểm trên chủ yếu đề cập đến vấn đề giai cấp, chưa chú trọng đến vấn đề dân tộc, đặc biệt là vấn đề dân tộc thuộc địa.

Từ chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho cách mạng Việt Nam. Người kế thừa toàn diện, sâu sắc và làm phong phú chủ nghĩa Mác – Lê-nin về cách mạng vô sản, trong đó có lý luận về việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp đặc biệt trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.

Nhìn nhận vấn đề dân tộc và giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, để giải quyết mối quan hệ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích dân tộc là trên hết, trước hết. Coi đây là nguyên tắc tối cao trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Điều này có thể thấy rõ trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bắt đầu từ khi người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài tìm đường cứu nước, thì chính tinh thần dân tộc và lợi ích dân tộc Việt Nam là yếu tố chủ đạo trong tư tưởng cách mạng của Người bởi với một người dân mất nước thì lợi ích dân tộc cao nhất, đó là: Độc lập – Tự do. Khi đã giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, trở thành một trong những lãnh tụ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Người luôn khẳng định: “Vì tự do cho đồng bào tôi” (1), độc lập cho Tổ quốc tôi.

Trong quá trình bôn ba khắp năm châu bốn biển, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn kiên định với tư tưởng lấy lợi ích dân tộc (trong lúc này là vấn đề dân tộc giải phóng) là vấn đề đầu tiên, trước tiên của cách mạng. Có thể nói, chủ trương giải phóng dân tộc là một tư tưởng lớn của Người, khẳng định sự nhạy bén về mặt chính trị và bản lĩnh của người cộng sản vượt qua mọi rào cản giáo điều cứng nhắc.

Tháng 5 – 1941, sau khi trở về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương Tám, vấn đề lợi ích dân tộc được Chủ tịch Hồ Chí Minh luận giải một lần nữa. Người chỉ rõ: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(2). Hội nghị đã quyết định đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, coi đây là nhiệm vụ quan trọng nhất. Đặc biệt, sau khi Nhật vào Đông Dương và khi thời cơ giành độc lập đang đến gần, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong lúc này, quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”(3), quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Như vậy, phải có lập trường giai cấp vững chắc mới có được tư tưởng đó – tư tưởng dân tộc cao nhất trong tình thế “nước sôi, lửa bỏng” lúc bấy giờ, và vì có lập trường giai cấp vững chắc nên mới thể hiện được tư tưởng dân tộc cao nhất. Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 là kết quả của tính sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh, của tầm nhìn đổi mới và phương pháp cách mạng của Người trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa như Việt Nam. Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định một chân lý: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(4).

Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, đồng thời luôn nhắc nhở cán bộ đảng viên cần nêu cao lợi ích dân tộc và phải có tinh thần dân tộc vững chắc, bởi: “Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm” đối với mỗi quốc gia dân tộc. Do đó, chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Có thể nói, đặt vấn đề lợi ích dân tộc lên trên hết là một sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh. Với một quốc gia bị thế lực ngoại xâm xâm lược, thì đó là một điều hiển nhiên. Bởi vì, trong thực tế, xét cho đến cùng, áp bức giai cấp là căn nguyên của áp bức dân tộc và sự bất bình đẳng giữa các dân tộc, song nếu nước mất thì nhà tan. Dân tộc bị xâm lược thì giai cấp cũng là thân phận nô lệ. Do đó, lợi ích dân tộc và giai cấp là thống nhất với nhau.

Trong lịch sử, dù giai cấp nào đại diện cho dân tộc, khi mà đất nước bị giặc ngoại xâm, khi dân tộc trở thành nô lệ thì đều phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết. Thậm chí, nếu lợi ích dân tộc và giai cấp mâu thuẫn với nhau thì phải tạm gác lại lợi ích giai cấp. Như vậy, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, lấy mục tiêu độc lập dân tộc là hàng đầu, là hoàn toàn hợp quy luật, hợp lôgic phát triển của lịch sử, hợp với truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

Vì lợi ích của nhân dân

Yêu nước và yêu dân là mối quan hệ biện chứng, là dòng tư tưởng lớn nhất và xuyên suốt tư duy và hành động của toàn dân tộc Việt Nam trong cả chiều dài lịch sử. Không có lòng yêu nước chung chung trừu tượng mà yêu nước là yêu nhân dân, là đem lại độc lập tự chủ cho nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Bởi thực tiễn lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam đã khẳng định một chân lý: Nhân dân là người làm nên lịch sử, sức dân là vô địch. Chính những người dân chân lấm, tay bùn, biết bao đời lao động cần cù, hai sương một nắng đã dời núi, lấp biển dựng nên hình hài Tổ quốc và đã biết bao lần mang xương máu của mình tạo nên bức tường thành vững chắc để giữ gìn, bảo vệ quê hương, đất nước, bảo vệ những thành quả do mình tạo dựng nên.

Thấm nhuần tư tưởng mác-xít và trải qua thực tiễn quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân là lực lượng vô tận của cách mạng và là nhân tố tạo nên thắng lợi của cách mạng. Người đã khẳng định: “Có dân là có tất cả”, tin ở dân, dựa vào dân, tập hợp và phát huy sức mạnh của toàn dân là nguyên tắc cơ bản trong chiến lược cách mạng của Người. Nguyên tắc quan trọng này bắt nguồn từ các giá trị trong truyền thống dân tộc: “Chở thuyền là dân, làm lật thuyền cũng là dân”, “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”.

Sinh thời, Người từng nói: Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân, dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân, bởi dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Do đó, với Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo – là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng – cũng vì mục đích đó… Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân” (5). Cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh hy sinh, đấu tranh cũng chỉ vì một mục đích: Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” (6). Đây cũng chính là lợi ích cao nhất của dân tộc mà Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam luôn hướng tới.

Đối với nước ta hiện nay, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết có ý nghĩa rất thiết thực, là cơ sở cho sự ổn định, phát triển và tạo nên nguồn lực to lớn cho công cuộc đổi mới. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, tổng kết 30 năm đổi mới, dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII đã nêu lên 5 bài học kinh nghiệm quý báu:

Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo.

Hai là, đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, vì lợi ích nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân.

Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp, tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết.

Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.

Trong đó, bài học thứ 4 có ý nghĩa cực kì quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi những năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức.

Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn, mang đến thời cơ, vận hội phát triển rộng lớn cho đất nước. Tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ “diễn biến hoà bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,…

Trước tình hình đó, bài học về đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết cần được quán triệt trong mọi đường lối phát triển của đất nước. Thực hiện lợi ích căn bản của dân tộc Việt Nam hiện nay là thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân ấm no, tự do, hạnh phúc”. Thực hiện mục tiêu đó, Việt Nam góp phần tích cực vào xây dựng một thế giới của các dân tộc sống trong hòa bình, độc lập, tự do và phát triển bền vững.

Để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu trên bài học “lấy dân làm gốc”, phát huy sức mạnh dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thành nguồn sức mạnh và động lực to lớn để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển bền vững đất nước. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”. Trong thời gian tới, Đảng cần củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.

ThS. Ngô Thị Phương Thảo – Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 497

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.113

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 198

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 4

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 240

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 161

Theo: tapchicongsan.org.vn