Top 13 # Xem Nhiều Nhất Lợi Ích Của Việc Học Luật Bằng Phương Pháp Giải Quyết Tình Huống Mới Nhất 4/2023 # Top Like | Comforttinhdauthom.com

Phương Pháp Dạy Học Nghiên Cứu Tình Huống, Giải Quyết Vấn Đề

PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Trong thực tế làm việc , học viên thường phải tiếp xúc với các “tình huống”, “vấn đề” (những khó khăn cần giải quyết…); nhưng khi học tập, Học viên chỉ được dạy các theo các môn học riêng rẽ, ít có dịp luyện tập giống như trong thực tế, các năng lực đòi hỏi lồng ghép nhiều kiến thức, kỹ năng, thái độ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Nhiều vấn đề thực tiễn không giống như khi học, hoặc chưa có giải pháp khuôn mẫu, nên học viên sau tốt nghiệp thường lúng túng, nhất là trong ra quyết định xử lý tình huống.

I. DẠY HỌC QUA NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG

a) Tình huống là những sự kiện, vụ việc, hoàn cảnh có mâu thuẫn, có vấn đề cần được giải quyết.

b) Tình huống “có vấn đề”: là trở ngại về trí tuệ của con người, xuất hiện khi ta chưa biết cách giải thích hiện tượng, sự việc hay một quá trình nào đó của thực tế.

c) Tình huống dạy học: mô tả những sự kiện, hoàn cảnh có thực hoặc hư cấu nhằm đạt những mục tiêu, mục đích dạy học.

d) Dạy học qua (bằng) nghiên cứu tình huống: dạy học dựa trên tình huống có thật hoặc giống như thật, đòi hỏi người học phải tìm hiểu, suy nghĩ, đề ra được quyết định thích hợp nhất.

Nghiên cứu tình huống còn gọi là nghiên cứu trường hợp điển hình (case study) là một trong những phương pháp dạy học chủ động, được sử dụng ngày càng phổ biến, nhằm khắc phục tình trạng thực tế là trong quá trình học tập, người học không được tự ra các quyết định; nên khi ra thực tiễn sẽ lúng túng, thiếu suy nghĩ, cân nhắc, không đề ra được quyết định hợp lý khi thực hiện nhiệm vụ theo chức trách đảm nhiệm.

2. Yêu cầu khi biên soạn tình huống, phân loại tình huống

a. Yêu cầu khi biên soạn tình huống

Tình huống được biên soạn cần đảm bảo các yêu cầu sau:

+ Tình huống phải mang tính thời sự, sát với thực tế; phải chứa đựng thông tin đầy đủ, buộc người học phải sử dụng thông tin trong tình huống để giải quyết vấn đề. Trong tình huống phải cung cấp đầy đủ các dữ liệu cần thiết như thời gian, địa điểm, những nguyên nhân phát sinh sự kiện, vấn đề.

+ Tình huống đưa ra phải thể hiện những thách thức thực sự đối với người học, phải tạo ra khả năng để người học đưa ra nhiều giải pháp, để thu hút sự chú ý, kích thích tư duy, tình huống phải “có vấn đề” và không có câu trả lời duy nhất đúng cho vấn đề đó. Các nhân vật, sự kiện trong tình huống có tính hiện thực.

+ Tình huống đưa ra phải có tính phức tạp vừa đủ, buộc người học phải suy nghĩ, vận dụng khả năng trí tuệ để giải quyết. Một tình huống có thể rất dài, phức tạp hoặc rất ngắn gọn và đơn giản. Độ dài và độ phức tạp của tình huống không phụ thuộc vào mục tiêu giảng dạy mà giảng viên đề ra. Nói chung, độ dài của tình huống không quyết định mức độ phức tạp của tình huống. Tuy nhiên, giảng viên có thể tạo ra các nhân vật, sự kiện, bổ sung thông tin để phục vụ cho mục tiêu giảng dạy của mình.

Có nhiều loại tình huống và mục đích sử dụng khác nhau. Có thể xếp các loại tình huống theo mức độ phức tạp dần như sau:

Các tình huống chứng minh;

Tình huống đề cập tới một vụ việc.

Tình huống nêu ra vấn đề phải giải quyết.

Tình huống có tính chất tổng hợp.

Tình huống có tính chất tham gia trình diễn.

Tình huống chứng minh: là một câu chuyện được đặt ra, không dựa vào một hoàn cảnh hoàn toàn có thực, mà chỉ có mục đích nói lên một sự thực mà tác giả muốn diễn tả. Những tình huống này không có gì để bàn cãi, vì người học hoặc chấp nhận sự thật hoặc không.

Tình huống nêu ra vấn đề phải giải quyết: khác với tình huống về một vụ việc ở chỗ, vấn đề không được nói rõ ra. Việc đầu tiên của người học là phải tìm ra vấn đề. Với loại tình huống nêu vấn đề, thông thường người học được chỉ định thực hành những điều do tình huống đưa ra.

Tình huống trình diễn: là loại tình huống tổng hợp, trình bày thông qua các vai diễn. Người học và giảng viên đều tham dự vào việc đóng các vai của tổ chức đã thể hiện, trở thành những người trong cuộc.

Để thực hiện phương pháp dạy học bằng nghiên cứu tình huống, cần có các điều kiện sau:

a) Người học đã được chuẩn bị trước về kiến thức, đã được học hay tự học về nội dung cơ bản của tình huống nghiên cứu và cách ra quyết định khi nghiên cứu tình huống.

b) Người viết, hướng dẫn sử dụng nghiên cứu tình huống phải nắm vững kiến thức cơ bản chung về nội dung của nghiên cứu tình thuống, tốt nhất là đã gặp và giải quyết tốt tình huống được nêu để đảm bảo tình huống đó có đầy đủ các dữ kiện và giống như trong thực tế đã có (tình huống phải sát với thực tế).

c) Dữ kiện phải đủ thông tin (không thừa, không thiếu, không “bẫy” người học). Tình huống phải được viết, in, phát cho từng người (hoặc chiếu toàn bộ lên màn hình) để người học có thể tự học, có điều kiện suy nghĩ, nghiên cứu, cân nhắc khi ra quyết định; không thể yêu cầu người học chỉ nghe đọc thoáng qua mà ra ngay quyết định.

4. Cách tiến hành dạy học bằng nghiên cứu tình huống

b) Xác định mục tiêu học tập.

d) Nêu câu hỏi (để học viên ra quyết định). Có thể thực hiện theo hai cách:

Câu hỏi mở: Yêu cầu người học tự đề ra biện pháp để giải quyết vấn đề trong nghiên cứu tình huốn, giúp cho người học được chủ động, thoải mái hơn.

Câu hỏi đóng: Đề ra sẵn một số biện pháp để người học chọn ra biện pháp đúng, thích hợp nhất sau khi đã nghiên cứu, suy nghĩ trên các dữ kiện của tình huống đã cho.

Câu hỏi đóng thường được trình bày theo hai dạng:

– Đề ra hay 5 biện pháp, chọn lấy 1.

f) Tổng kết (theo mục tiêu học tập).

5. Quy trình biên soạn và dạy học theo phương pháp nghiên cứu tình huống

– Xác định rõ mục tiêu học tập.

– Để khoảng 50% thời gian giới thiệu lý thuyết hoặc những nguyên tắc cơ bản của nội dung bài học (có thể hướng dẫn cho học viên tự học, giảng viên khái quát lại).

– Khoảng 10% thời gian, giảng viên tổng kết buổi trao đổi, củng cố nâng cao phần đã học.

6. Trường hợp vận dụng phương pháp dạy học bằng nghiên cứu tình huống.

– Dạy kỹ năng ra quyết định.

– Dạy kỹ năng giải quyết vấn đề.

7. Lợi ích của việc dạy học bằng nghiên cứu tình huống

– Người học có điều kiện vận dụng kiến thức đã học để giải quyết tình huống, sự việc cụ thể xảy ra trên thực tế.

– Giúp người học làm quen với cách giải quyết tình huống cụ thể ngay trong quá trình học tập ở trường.

Nguồn: nhà xuất bản quân đội nhân dân

Ứng Dụng Phương Pháp Giảng Dạy Tình Huống Trong Đào Tạo Ngành Luật

Ths. Vũ Thị Thúy

Giảng viên khoa Luật hình sự, Trường Đại học Luật TP.HCM

Tạp chí khoa học pháp lý, năm 2010.

Đặt vấn đề

Ngày nay, trên thế giới tồn tại hai triết lý giáo dục: thứ nhất, giáo dục trang bị cho người học một lượng kiến thức tối đa làm nền tảng vững chắc cho các hoạt động nghề nghiệp sau này. Thứ hai, giáo dục cung cấp cho người học kỹ năng xử lý các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống, công việc hơn là cung cấp kiến thức cho người học[1]. Trong khi hầu hết các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới đang áp dụng triết lý giáo dục thứ hai thì ở Việt Nam hiện nay, triết lý giáo dục thứ nhất vẫn được áp dụng phổ biến.

Trong thời đại ngày nay, lượng thông tin và tri thức của nhân loại hàng năm tăng theo cấp số nhân. Điều này đòi hỏi con người phải có khả năng thích ứng liên tục và nhanh chóng về cả tri thức và kỹ năng. Vì vậy, nếu trước đây, ưu tiên số một của giáo dục là trang bị kiến thức cho người học, giúp cho người học ghi nhớ được một lượng kiến thức tối đa trong khả năng của họ thì ngày nay các phương tiện lưu trữ thông tin (máy tính, internet…) sẵn sàng cung cấp thông tin một cách nhanh chóng cho con người. Do đó, ưu tiên số một của người học không phải là ghi nhớ tri thức mà là nhanh chóng tiếp cận, vận dụng tri thức mới và sáng tạo ra tri thức mới.

Tình hình đó đòi hỏi giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng phải đổi mới. Nếu như trước đây, giáo dục đại học có thể trang bị cho người học một lượng tri thức để họ có thể sử dụng trong hầu như cả quá trình làm việc của họ thì ngày nay, giáo dục đại học không thể thực hiện được nhiệm vụ đó. Vì vậy, nếu chúng ta chỉ tập trung vào mục tiêu trang bị tri thức cho sinh viên thì thời gian giáo dục đại học dù có tăng lên gấp đôi hoặc gấp ba cũng không thể đảm bảo trang bị đủ tri thức cho sinh viên làm việc suốt đời. Hơn nữa, tri thức nhân loại ngày nay thay đổi nhanh chóng và sớm trở nên lỗi thời. Do đó, nội dung chương trình giảng dạy ở bậc đại học ngày nay cần chú trọng kiến thức nền tảng và kỹ năng tự học, tự nghiên cứu để học viên tiếp tục tự học tập trong tương lai, học suốt đời[2] hơn là chỉ chú trọng việc trang bị tri thức cho người học. Phương pháp dạy và học bằng tình huống phần nào đáp ứng được yêu cầu đó.

Phương pháp dạy và học bằng tình huống lần đầu tiên được phát triển tại đại học MacMaster ở Hamilton, Canada từ đầu thế kỷ 20. Việc sử dụng các tình huống như một phương pháp giảng dạy mới trong khoa học xã hội đã được phát triển bởi nhà xã hội học Barney Glaser và Anselm Strauss vào năm 1967. Tuy nhiên, phương pháp giảng dạy tình huống chỉ được áp dụng phổ biến trong vài thập niên gần đây, nhất là trong lình vực giảng dạy kinh doanh và luật[3].

Hiện nay, trong khoa học giáo dục có nhiều cách định nghĩa khác nhau về tình huống: (1.) Tình huống là những câu chuyện thực tế với những thông điệp nhằm mục đích giáo dục[4]. (2) Tình huống là những thông tin trong đó có chứa đựng mâu thuẫn nhận thức (muốn biết mà chưa biết) không thể giải quyết chỉ bằng sự tái hiện[5]. Có người cho rằng con người bắt đầu tư duy khi có nhu cầu hiểu biết một cái gì đó. Tư duy thường xuất phát từ một vấn đề hay một câu hỏi, từ một sự ngạc nhiên hay một điều trăn trở. Như vậy, tư duy chỉ bắt đầu từ một tình huống có vấn đề – đó là trạng thái tâm lý độc đáo của chủ thể xuất hiện khi chủ thể đó chưa tìm ra hướng giải thích hiện tượng, sự kiện, quá trình trong thực tiễn, khi chủ thể chưa thể đạt đến bằng các cách thức hành động quen thuộc[6].

    Những ưu điểm và hạn chế của phương pháp giảng dạy tình huống

    Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm, giảng dạy bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:

    Thứ hai, phương pháp giảng dạy bằng tình huống giúp người học nâng cao khả năng tư duy độc lập, sáng tạo. Nếu trong phương pháp giảng dạy truyền thống, quá trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giảng viên và sinh viên, trong đó giảng viên là người truyền đạt tri thức và sinh viên là người tiếp nhận tri thức đó thì phương pháp giảng dạy tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương tác giữa học viên và giảng viên, giữa các học viên với nhau. Trong đó, học viên được đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quết định đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giảng viên khi giải quyết một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm phong phú hơn vốn tri thức của họ.

    Thứ ba, dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận dụng các kiến thức đã học được. Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của nhiều môn học khác nhau. Ví dụ, để giải quyết một tình huống thực tế về vụ một nhóm người chưa thành niên có hành vi dùng dao và gậy cố ý gây thương tích cho người khác, người học phải vận dụng các kiến thức về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, lỗi, đồng phạm, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, xử lý các công cụ, phương tiện phạm tội…

    Thứ tư, nghiên cứu tình huống giúp người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng chưa có căn cứ pháp lý hoặc cơ sở lý thuyết để áp dụng giải quyết. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả năng phát sinh những sự kiện mà nhà làm luật hoặc các nhà nghiên cứu chưa dự liệu được. Trong tình huống này, khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả năng người học sẽ tìm ra được những cách lý giải mới.

    Thứ năm, phương pháp giảng dạy tình huống giúp cho người học có thể rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công, nhất là đối với sinh viên luật. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu điểm và hạn chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông một cách khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách logic; hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng ghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong phú hơn vốn kiến thức của mình.

    Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức, kỹ năng và thái độ thì phương pháp giảng dạy tình huống nếu được áp dụng tốt có thể đạt được cả ba mục tiêu này.

    Cuối cùng, giảng viên, với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho sinh viên, đồng thời họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học viên đã có quá trình công tác thực tiễn. Qua quá trình hướng dẫn sinh viên nghiên cứu tình huống, giảng viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.

    Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống còn có một số điểm hạn chế nhất định.

    Thứ hai, phương pháp học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học, thái độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên, hiện nay có khá nhiều học viên, sinh viên không quen với phương pháp học bằng tình huống, họ không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, không hợp tác nên làm giảm hiệu quả của phương pháp giảng dạy bằng tình huống.

    Thứ ba, phương pháp dạy và học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người học. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định, giảng viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic cho sinh viên. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, sinh viên phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp nhiều lần so với phương pháp học truyền thống.

    1.3. Nguyên tắc và kỹ năng viết tình huống luật

    Khi xây dựng một hệ thống các tình huống để giảng dạy cho một môn học cụ thể, người viết tình huống cần cân nhắc một số vấn đề như: lựa chọn tình huống nào, những chi tiết nào trong tình huống đó được giữ lại, chi tiết nào nên loại bỏ để đạt được mục tiêu của bài giảng. Qua kinh nghiệm giảng dạy môn Luật hình sự và quá trình nghiên cứu và xây dựng các tình huống cho môn Lý luận định tội, chúng tôi rút ra một số kinh nghiệm về nguyên tắc và kỹ năng viết tình huống luật như sau:

    Thứ hai, người xây dựng tình huống cần lưu ý tới tính chất thực tế của của vụ án để làm cho người tiếp nhận các sự kiện trong tình huống đó có cảm giác họ đang nghiên cứu một vụ án có thật. Khi xây dựng tình huống luật, chúng ta không chỉ nêu chi tiết, cụ thể các sự kiện diễn ra trong vụ án mà cần đưa ra những thông tin xác thực về thời gian phạm tội, địa điểm vụ án diễn ra cũng như tên bị can, bị cáo, người bị hại… Người viết tình huống cần tránh đưa ra những thông tin mang tính chất giả định như: “Anh A trộm cắp tài sản của B ở tỉnh X vào đầu năm 2009”, mà cần cụ thể hoá thông tin như: “Khoảng 3 giờ sáng ngày 03/01/2009, Nguyễn Văn Hạnh lẻn vào nhà anh Mai Văn Lâm ở số nhà 123/15, đường Bùi Đình Túy, Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh trộm cắp xe gắn máy….”. Việc đưa ra thông tin “thật” này tạo cho người học tâm lý như họ đang nghiên cứu về một vụ án có thật, với những người thật, việc thật và họ được đặt vào trong hoàn cảnh giống như đang được giao một trọng trách với một vai trò cụ thể như thẩm phán, luật sư hay kiểm sát viên trong việc giải quyết vụ án đó. Khi đó họ sẽ cảm thấy hứng thú và có trách nhiệm với những quyết định, lập luận và giải thích của họ trong quá trình nghiên cứu tình huống.

    Thứ tư, một tình huống có thể phục vụ để giảng dạy cho một môn học, một bài học hoặc một phần nội dung của bài học. Khi xây dựng tình huống, người viết tình huống cần xác định rõ mục tiêu của việc nghiên cứu tình huống đó để lựa chọn một lượng thông tin vừa đủ cung cấp cho người học. Người viết tình huống cần đặt những câu hỏi như: Tình huống này được sử dụng để giảng dạy bài nào? Mục tiêu của việc nghiên cứu tình huống này là gì? Thông qua việc nghiên cứu tình huống này, sinh viên có thể học được kiến thức lý thuyết gì? Những kỹ năng nào sinh viên có thể đạt được khi nghiên cứu tình huống đó?… Những thông tin đưa ra trong tình huống chỉ cần ở mức độ vừa và đủ để giúp học viên có thể đạt được mục tiêu của bài học. Nếu lượng thông tin đưa ra quá nhiều, có sự kết hợp nhiều nội dung trong một tình huống sẽ gây ra sự nhàm chán, mất thời gian và có thể vấn đề không được giải quyết triệt để, sẽ phá vỡ kết cấu bài giảng. Ví dụ, khi đưa ra một tình huống giúp sinh viên nghiên cứu bài “Quyết định hình phạt”, người viết tình huống đưa ra các tình tiết rắc rối khiến sinh viên tranh luận sôi nổi về vấn đề người thực hiện hành vi trong tình huống đó có lỗi hay không? Đó là lỗi gì? Người đó có phạm tội không?… trên cơ sở đó mới có căn cứ để quyết định hình phạt. Sự tranh luận sa đà vào những vấn đề nêu trên sẽ làm cho sinh viên không hiểu được nhiệm vụ của họ là đang nghiên cứu bài “Quyết định hình phạt” và hệ quả là sinh viên sẽ không nắm được những kiến thức lý thuyết cũng như các kỹ năng của bài “Quyết định hình phạt”. Ngược lại, nếu tình huống quá đơn giản, những thông tin mà tình huống cung cấp không đủ để giải quyết vấn đề sẽ làm cho người học cảm giác như bị đánh đố và họ không có đủ dữ liệu để giải quyết tình huống này. Khi đó, mục tiêu của bài học sẽ không đạt được.

    Thứ năm, người viết tình huống cần có sự hiểu biết sâu sắc về người học để xây dựng tình huống phù hợp với khả năng của học viên. Tình huống quá khó sẽ làm cho học viên cảm thấy công việc quá sức và cảm giác tự ti sẽ làm cho người học không còn hứng thú với môn học. Ngược lại, tình huống quá dễ sẽ làm học viên thấy môn học tẻ nhạt, buồn chán, không hữu ích. Vấn đề khó khăn của người viết tình huống là cần hiểu rõ năng lực của học viên, đặt mình vào địa vị của người học để xây dựng những tình huống ở mức độ từ dễ đến khó trong khả năng của phần lớn học viên để họ có thể thực hiện nhiệm vụ của mình được đặt ra trong tình huống và họ thấy hứng thú với môn học.

    1.4. Nguồn thông tin dữ liệu giúp xây dựng ngân hàng tình huống

    Để đảm bảo độ chân thực của tình huống, chúng ta không nên tự sáng tạo ra các tình huống mà cần lấy “chất liệu” từ cuộc sống. Vì vậy, tìm kiếm nguồn thông tin có vai trò quan trọng giúp chúng ta có thể xây dựng được tình huống tốt. Thông tin dữ liệu xây dựng ngân hàng tình huống có thể khai thác từ các nguồn sau:

    – Từ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền

    Các bản án và quyết định của Toà án hoặc hồ sơ giải quyết vụ việc của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là nguồn thông tin quan trọng giúp chúng ta xây dựng ngân hàng tình huống. Ưu điểm của nguồn thông tin này là chúng ta có một bộ hồ sơ hoàn chỉnh về quá trình giải quyết vụ việc từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Vì vậy, người viết tình huống có nguồn dữ liệu dồi dào và khả năng lựa chọn rộng. Họ có thể khai thác nhiều vấn đề trong cùng một hồ sơ vụ án để phục vụ cho nhiều nội dung giảng dạy khác nhau trong chương trình. Khi chúng ta xây dựng tình huống để giảng dạy cho một môn học hoặc một bài học, chúng ta nên lấy dữ liệu từ một hồ sơ vụ án hoàn chỉnh; khi xây dựng tình huống cho một bài học hoặc một nội dung trong bài học, chúng ta có thể chọn lọc một phần dữ liệu trong hồ sơ đó phù hợp với mục đích và yêu cầu của bài giảng. Nguồn dữ liệu từ các cơ quan nhà nước phản ánh một cách chân thực và sống động nhất thực tế xã hội. Thông qua hồ sơ vụ án, người viết tình huống còn có thể biết được quan điểm của cơ quan có thẩm quyền khi giải quyết vụ việc đó và phát hiện độ “vênh” giữa lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, có một điểm hạn chế đáng kể trong việc khai thác nguồn dữ liệu từ các cơ quan có thẩm quyền là chúng ta khó tiếp cận thông tin. Khó khăn này xuất phát từ việc các cơ quan nhà nước thường không muốn cung cấp thông tin cho người nghiên cứu hoặc có thể một phần các dữ liệu từ các hồ sơ vụ việc đó là những thông tin thuộc bí mật nhà nước hoặc bí mật công tác nên chúng ta không thể tiếp cận và sử dụng làm tình huống để giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

    – Từ hoạt động thực tiễn của giảng viên

    Ngoài nhiệm vụ chính là giảng dạy tại các trường đại học, ngày nay có rất nhiều giảng viên là cộng tác viên, tư vấn cho các doanh nghiệp, văn phòng luật sư, công ty luật hoặc hội thẩm nhân dân tại các tòa án. Trong quá trình hoạt động thực tiễn này, giảng viên sẽ có một vốn tri thức và kinh nghiệm phong phú về lĩnh vực giảng dạy của mình và đây sẽ trở thành một nguồn thông tin quan trọng cho họ khi xây dựng các tình huống phục vụ cho hoạt động giảng dạy. Những kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn này có ưu điểm là được rút ra từ chính những vụ việc mà họ phải giải quyết nên người viết tình huống không những có nguồn thông tin khá đầy đủ mà họ còn có sự hiểu biết sâu sắc về vụ việc.

    – Từ người học

    – Từ báo chí            

    Báo chí cung cấp một nguồn thông tin phong phú và đa dạng cho người viết tình huống. Thông thường, những vụ việc được nêu lên trên báo chí đều là những tình huống “có vấn đề” do cuộc sống đặt ra. Điều quan trọng là người viết tình huống cần nhìn thấy được “vấn đề” pháp lý được nêu ra trong một số vụ việc bị báo chí đưa tin và khai thác nội dung thông tin một cách hiệu quả. Người nghiên cứu tình huống luật có thể khai thác thông tin từ các tờ báo như Tuổi Trẻ, Thanh Niên; các trang web như chúng tôi chúng tôi hoặc các tạp chí chuyên ngành như tạp chí Tòa án, Luật học, Khoa học Pháp lý, Nhà nước và Pháp luật… Tuy nhiên, những thông tin từ báo chí thường được tóm tắt ngắn gọn hoặc được nhìn nhận qua “lăng kính” chủ quan của người viết nên gây một số khó khăn nhất định cho người khai thác tình huống. Vì vậy, người viết tình huống cần có những chỉnh sửa hợp lý để phù hợp với nội dung và yêu cầu của bài giảng.

    Có ý kiến cho rằng giảng viên có thể sử dụng các tình huống có sẵn từ các tài liệu nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Các tình huống này được chuẩn bị hết sức chuyên nghiệp bởi các chuyên gia. Tuy nhiên, đôi khi các dữ kiện trong tình huống này rất xa lạ với môi trường kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam, khi các tiền đề về thị trường, doanh nghiệp và khách hàng còn rất khác biệt. Quan trọng hơn cả là các tình huống này không phù hợp với hệ thống pháp luật của Việt Nam. Vì vậy, chúng ta có thể nghiên cứu các tình huống của nước ngoài để học hỏi cách thức xây dựng tình huống mà không nên lấy nguyên mẫu tình huống của nước ngoài để giảng dạy luật ở Việt Nam

    Nguồn thông tin là yếu tố rất quan trọng để xây dựng một tình huống tốt. Những thông tin này có thể được so sánh với nguyên liệu của quá trình sản xuất. Người viết tình huống không thể ngồi nghĩ ra các tình huống mà không xuất phát từ cuộc sống. Vì vậy, việc lựa chọn nguồn thông tin để khai thác tình huống sẽ giúp người viết tình huống tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức, đồng thời có những tình huống hay, sinh động và đạt được các mục đích, yêu cầu của bài giảng.

    1.5. Tổ chức giảng dạy bằng tình huống

    Một trong những nhân tố quan trọng đóng góp vào sự thành công trong phương pháp giảng dạy tình huống là hoạt động tổ chức giảng dạy. Khác với phương pháp thuyết giảng, giảng viên là người diễn thuyết đóng vai trò là diễn viên và sinh viên đóng vai trò là các khán giả thì trong phương pháp giảng dạy tình huống, giảng viên đóng vai trò như một người quản trò, một người tổ chức hoạt động giảng dạy. Vì vậy, nếu trong một lớp thuyết giảng, có thể một giảng viên giảng dạy đồng thời cho hàng trăm sinh viên thì trong lớp học bằng phương pháp tình huống, giảng viên chỉ có thể kiểm soát và tổ chức hoạt động giảng dạy cho một số lượng sinh viên hạn chế. Hơn nữa, nếu trong phương pháp thuyết giảng, giảng viên gần như đóng vai trò là người độc thoại nên sự giao tiếp, tương tác giữa người dạy và người học không nhiều thì trong phương pháp giảng dạy tình huống, sự trao đổi giữa người dạy và người học diễn ra thường xuyên. Vì vậy, người dạy cần phải tạo ra được sự cởi mở trong môi trường học tập ngay từ đầu giữa học viên và giảng viên. Ngay từ đầu khoá học, giảng viên nên dành thời gian để làm quen với học viên, đồng thời trao đổi về cách thức làm việc trong toàn khóa học.

    Có nhiều cách thức để vận dụng các tình huống vào hoạt động giảng dạy. Các tình huống đơn giản, chúng ta có thể dùng làm các ví dụ minh họa và mở rộng vấn đề cho từng đề mục lý thuyết. Một số tình huống tương đối phức tạp hơn, giảng viên có thể sử dụng để giảng dạy xuyên suốt cả một môn học. Mỗi buổi học đều dùng tình huống này nhưng triển khai ở các bước khác nhau, khai thác các nội dung khác nhau trong cùng tình huống đó. Đây là cách giảng viên cung cấp tính liên kết các nội dung cho người học. Những tình huống phức tạp, có thể giao cho nhóm sinh viên giải quyết trong một học kỳ. Các tình huống lớn có tính chất liên môn học – điều này hiện nay một trường ở Mỹ đã làm, chúng ta có thể làm dưới hình thức một môn học tổng hợp chỉ dạy bằng tình huống hoặc thay hẳn cách làm hiện nay đối với thực tập tốt nghiệp[9].

    * Những thách thức đặt ra cho người học và người dạy khi tổ chức giảng dạy bằng tình huống

    Những điểm tích cực của phương pháp mới là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, có một số thách thức đặt ra cho cả người dạy và người học trong quá trình ứng dụng phương pháp giảng dạy tình huống và những khó khăn này nếu không được khắc phục sẽ làm giảm hiệu quả của phương pháp giảng dạy tình huống.

    – Những thách thức đối với giảng viên

    Phương pháp giảng dạy bằng tình huống đòi hỏi giảng viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và  đặc biệt là pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một tình huống, giảng dạy trong một học kỳ thì một văn bản pháp luật mới ra đời làm thay đổi hoàn toàn tính chất pháp lý của tình huống đó (như có tội trở thành vô tội). Thực tế này làm tăng đáng kể khối lượng công việc của giảng viên. Để có được một tình huống tốt, đạt được mục đích của bài giảng, sát với thực tế cuộc sống và phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành, giảng viên phải đầu tư nhiều thời gian, công sức, trí tuệ để cập nhật các quy định mới của pháp luật, thu thập, xử lý thông tin và xây dựng tình huống mới. Để làm được những công việc đó, trên hết, giảng viên phải là người có tâm huyết với nghề.

    – Những thách thức đối với học viên

    Phương pháp học bằng tình huống đòi hỏi học viên phải là người năng động, có tinh thần ham học hỏi, học tập nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo. Phương pháp dạy và học bằng tình huống chỉ đạt được hiệu quả khi có sự hợp tác chủ động, tích cực và sự hăng say học tập của học viên, học viên phải là người biết quản lý tốt thời gian học tập của mình và biết phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Những học viên đã quen với phương pháp học thụ động (thầy giảng, trò nghe), không có tư duy độc lập và không quen phản biện quan điểm của thầy có thể khó thích ứng với phương pháp dạy và học bằng tình huống.

    – Một số thách thức thuộc điều kiện khách quan

    Thứ ba, cần có sự động viên, khích lệ về tinh thần và chính sách đãi ngộ về vật chất tốt đối với các giảng viên giảng dạy bằng tình huống. Bởi vì đầu tư của giảng viên cho phương pháp giảng dạy bằng tình huống rất lớn. Nếu cơ quan quản lý giáo dục không có sự đãi ngộ thích đáng, giảng viên sẽ không “mặn mà” với phương pháp giảng dạy hao tốn thời gian, trí tuệ và công sức này và sẽ quay về phương pháp diễn giải truyền thống.

    Cuối cùng, đây là một phương pháp dạy và học khoa học nhưng đang được ứng dụng chủ yếu theo kinh nghiệm của từng giảng viên. Mặc dù chúng ta thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm về đổi mới phương pháp dạy và học nhưng chưa có một khóa huấn luyện nâng cao về phương pháp giảng dạy bằng tình huống cho giảng viên.

    1.6. Đánh giá kết quả học tập của sinh viên theo phương pháp học bằng tình huống

    Nếu trong phương pháp học truyền thống, việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên chủ yếu nhằm kiểm tra kiến thức mà sinh viên nhận được từ giảng viên, thì trong phương pháp học bằng tình huống, việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên nhằm kiểm tra cả kiến thức và kỹ năng của sinh viên. Vì vậy, việc đánh giá của phương pháp dạy học bằng tình huống cần phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đào tạo của môn học cũng như của phương pháp giảng dạy học bằng tình huống.

    Trong phương pháp học bằng tình huống, các kiến thức lý thuyết được đòi hỏi ứng dụng vào việc giải quyết các vụ việc thực tế, kiến thức của các môn học có sự liên kết với nhau. Vì vậy, đánh giá kết quả học tập của sinh viên cần thể hiện được mối liên hệ giữa lý thuyết và thực hành cũng như mối liên kết giữa kiến thức của các môn học khác nhau.

    [1] Ngô Tứ Thành, “Giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy ở các trường Đại học ICT hiện nay”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học xã hội và nhân văn 24 (2008), tr. 237-242.

    [2] Ngô Tứ Thành, “Giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy ở các trường Đại học ICT hiện nay”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học xã hội và nhân văn 24 (2008), tr. 237-242.

    [3] http://en.wikipedia.org/wiki/Case_study#Case_selection

    [4] Clyde Freeman Herreid , “What is a case?, http://ublib.buffalo.edu/libraries/projects/cases/teaching/whatis.html

    [5] PGS. TS. Lê Phước Lộc, “Dạy học tình huống và vận dụng trong dạy học thiên văn”, Kỷ yếu Hội nghị Cải tiến Phương pháp dạy học Đại học, Khoa Sư phạm Đại học Cần Thơ, năm 2000, tr. 29-35.

    [6] PGS. TS. Lê Phước Lộc, “Dạy học tình huống và vận dụng trong dạy học thiên văn”, Kỷ yếu Hội nghị Cải tiến Phương pháp dạy học Đại học, Khoa Sư phạm Đại học Cần Thơ, năm 2000, tr. 29-35.

    [7] “Case study method and definitions”, http://www2.hec.ca/en/casecentre/case/method.html

    [8] Nguyễn Quang Vinh, “Đào tạo theo Phương pháp nghiên cứu tình huống”, http://www.baovietnhantho.com.vn/newsdetail.asp?websiteId=3&newsId=633&catId=33&lang=VN

    [9] Ths.Vũ Thế Dũng, Khoa quản lý công nghiệp, Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh, “Phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy”, http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/8809.aspx

    [10] Ths. Vũ Thế Dũng, Khoa quản lý công nghiệp, Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh, “Phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy”, http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/8809.aspx.

    Share this:

    Twitter

    Facebook

    Like this:

    Số lượt thích

    Đang tải…

Tuyển Chọn 10 Tình Huống Sư Phạm Thường Gặp Ở Tiểu Học Và Cách Giải Quyết Hay Nhất Cho Giáo Viên

1. Tình huống sư phạm thường gặp: Cha mẹ đánh học sinh trước mặt giáo viên

Hướng giải quyết:

Đầu tiên cố gắng giảm bớt căng thẳng trong không khí gia đình, sau đó giải thích cho phụ huynh học sinh đó rằng bạn đến nhà để thông báo kết quả không tốt của em ấy không phải là để cho phụ huynh đánh con. Rồi nêu lý do mà bạn đến nhà đầu tiên là để thăm gia đình còn thứ 2 là để kết hợp cùng với gia đình nhằm giáo dục tốt cho em học sinh này, từ đó giúp em cố gắng vươn lên để đạt kết quả học tập cao hơn.

Còn với cách giáo dục của gia đình, bạn cần nêu lên quan điểm như sau: “Tôi thấy hành động này là không ổn. Mỗi lần như thế lại đánh em không những ảnh hưởng về thân thể mà nó còn ảnh hưởng rất lớn về mặt tâm lý của các em nữa. Vì vậy tôi mong gia đình cần tìm ra cách giáo dục khác tốt hơn, phù hợp với tâm lý của em để dạy bảo.”

2. Tình huống sư phạm thường gặp: Nhận thấy một học sinh trung bình yếu có điểm cao bất ngờ

Tình huống:

Khi chấm bài kiểm tra hôm nay của học sinh, bạn cảm thấy bất ngờ vì có một trường hợp đột xuất, đó là bài làm của một học sinh có mức học trung bình yếu của lớp nhưng lại tốt đến kinh ngạc. Đến hôm trả bài nếu là bạn, bạn sẽ làm những gì trong tình huống này?

Hướng giải quyết:

Điều đầu tiên mà bạn không thể bỏ qua đó chính là khen ngợi bài làm của học sinh đó trước lớp vì em ấy đã có cách làm hay và độc đáo. Song song với việc đó bạn cần khéo léo xem xét xem bài làm đó có thực sự là của em đó hay không bằng cách gọi em ấy có thể lên bảng nói cách chữa bài và nói về cách làm của mình để các bạn khác trong lớp cùng nhau học tập theo, việc đó còn có thể giúp em ấy chứng minh được sự tiến bộ của mình và làm sáng tỏ việc mà bạn đang băn khoăn. Chắc chắn lúc này sẽ xảy ra 2 trường hợp:

TH1: Em học sinh này nói một cách trơn tru và làm tốt mọi thứ mà bạn yêu cầu. Từ đó chứng minh được em đã thực sự tiến bộ

TH2: Em ấy lúng túng không nói rõ ràng được thì bạn cũng đừng vội phê bình em ấy ngay trước lớp, mà hãy làm điều này thật tế nhị có thể sau giờ học bạn nói chuyện riêng với em ấy. Và điểm đó bạn chưa nên ghi vội mà có thể để xem thời gian tới em ấy thể hiện thế nào.

3. Tình huống sư phạm thường gặp: Chủ nhiệm phải một lớp trầm

Tình huống:

Khi BGH phân công cho bạn chủ nhiệm một lớp. Sau khi nhận lớp, bạn cảm thấy không khí học tập và các phong trào của lớp rất trầm. Trong lớp rất ít khi học sinh phát biểu bài, có ngày chẳng có học sinh nào phát biểu, các hoạt động của lớp cũng không hang hái. Trước tình trạng này bạn cẩn làm gì để khuấy động phong trào của lớp mà mình chủ nhiệm?

Hướng giải quyết:

Bạn cần tìm hiểu lý do vì sao các phong trào của lớp lại trầm như vậy. Sau khi đã tìm hiểu rõ được phần nào nguyên nhân thì sau đó hãy tiếp tục đưa ra hướng giải quyết. Chẳng hạn như :

Động viên khuyến khích tinh thần của các em khi làm được việc tốt.

Tổ chức thêm một số các hoạt động ngoại khóa, các trò chơi chung để các em em hòa đồng và năng động hơn.

Cần có những khích lệ khi các học sinh tham gia các hoạt động của trường.

Tổ chức thi đua giữa các nhóm trong lớp, biểu dương khen thưởng cho các học sinh và các nhóm.

Ngoài việc làm sôi nổi phong trào trong lớp thì các hoạt động như thế này còn làm siết chặt thêm tình bạn giữa các học sinh trong lớp nữa.

4. Tình huống sư phạm thường gặp: học sinh bị mất tiền

Tình huống:

Bạn vào lớp dạy khoảng 10 phút thì có một em học sinh đứng lên hốt hoảng nói với bạn rằng em mang tiền đi đóng quỹ lớp nhưng sau giờ ra chơi vào đã không thấy đâu. Nếu trong tình huống này, bạn sẽ xử lý như thế nào?

Hướng giải quyết:

Điều đầu tiên mà bạn cần phải làm đó chính là trấn an học sinh đó để em không quá hốt hoảng và lo lắng. Sau đó bạn tiếp tục bài giảng của mình và vào cuối tiết học thì dành thời gian giải quyết vấn đề:

Trước tiên bạn nên khuyên học sinh đó xem lại thật kỹ tiền còn ở trong túi em hay không và có phải mất ở lớp thật không.

Nếu thật sự mất ở lớp, bạn cần giữ cho mình một thái độ điềm tĩnh, ôn tồn để nói chuyện với các em học sinh trong lớp: bạn động viên tinh thần tự giác của các em trước, rồi giải thích cho học sinh và mở ra nhiều hướng cho em nào đã trót lấy tiền của bạn có cơ hội trả lại mà không ai biết mình đã lấy.

Nếu có học sinh trong lớp lấy thì bạn không nên mạt sát học sinh mà hãy tế nhị yêu cầu học sinh đó gặp riêng cô giáo để giải quyết.

Hãy đưa ra lời khuyên đối với học sinh làm mất tiền, với học sinh lấy tiền của bạn và toàn bộ học sinh trong lớp.

5. Tình huống sư phạm thường gặp: Phụ huynh xin cho con thôi học

Tình huống:

Trong lớp bạn chủ nhiệm có một học sinh học rất kém, lại thường xuyên đi học muộn, trong giờ học lại hay ngủ gật, không chú ý nghe giảng. Khi bạn đến gặp phụ huynh của em ấy để trao đổi về tình hình học tập của em và muốn phối hợp cùng với gia đình để giúp đỡ em học tốt hơn thì mẹ của em lại xin cho con thôi học. Lý do được đưa ra là vì bố em mất sớm, em lại có em nhỏ, thế nên mẹ em muốn xin cho em thôi học, ở nhà trông em để mẹ đi làm kiếm tiền nuôi các con. Trước tình huống này, là một giáo viên bạn phải làm gì để giúp đỡ cho học sinh?

Hướng giải quyết:

Trước tình huống này, bạn cần trao đổi thêm với phụ huynh học sinh, động viên gia đình tạo mọi điều kiện cho em được học tiếp. Phối hợp với hội phụ huynh của lớp, trường và địa phương để có thể giúp đỡ gia đình em vượt qua khó khăn.

Nếu mẹ của em đó tỏ ý lo lắng rằng con mình kém cỏi, có đi học cũng chẳng theo được các bạn hay cũng chẳng có lợi ích gì, thì bạn cần khéo léo, tế nhị nói rằng em ấy học chưa tốt chứ không phải vì em ấy kém mà chỉ vì em ấy chưa có thời gian và chưa thực sự tập trung vào việc học của mình. Như vậy, gia đình học sinh vừa tin tưởng con mình, lại vừa không phải cảm thấy xấu hổ vì kết quả học tập của con. Bạn hãy yêu cầu gia đình tạo mọi điều kiện cho em đó tập trung học và bạn cũng hứa sẽ quan tâm, khích lệ để em học tốt hơn. Bạn có thể phân công những em học sinh khác giỏi hơn kèm cặp cũng như giúp đỡ cho học sinh đó.

Nếu gia đình học sinh muốn em ấy ở nhà giúp việc vì hoàn cảnh khó khăn. Trong trường hợp này, bạn nên nhẹ nhàng động viên gia đình cho em đi học tiếp vì chính tương lai của em và cũng vì em còn quá nhỏ. Bạn có thể cắt cử học sinh ngoài giờ học thay phiên nhau đến giúp đỡ việc nhà cho em học sinh đó ấy có thời gian đi học. Bạn nên phối hợp với hội phụ huynh của lớp, trường và địa phương để có thể giúp đỡ gia đình em vượt qua khó khăn này. Bạn cũng có thể động viên gia đình cho em nhỏ của học sinh đi gửi nhà trẻ để mẹ em có thể yên tâm đi làm mà em học sinh đó vẫn được tiếp tục được đi học.

6. Tình huống sư phạm thường gặp: giáo viên chủ nhiệm đưa học sinh phạm lỗi về nhà

Tình huống:

Lớp bạn đang chủ nhiệm có một học sinh vi phạm nghiêm trọng nội quy của nhà trường. BGH yêu cầu bạn phải đưa em đó về tận nhà để nói chuyện với bố mẹ. Nhưng khi chưa kịp để giáo viên trình bày tường tận mọi việc, bố của em học sinh đó đã đứng dậy tát em học sinh tới tấp vì đã làm “xấu mặt” gia đình. Vào địa vị của người giáo viên chủ nhiệm này, bạn xử lý tình huống này sao đây?

Hướng giải quyết:

Trong tình huống này, bạn thực sự đã gặp phải một thách thức lớn vì phụ huynh quá nóng tính và cư xử có phần hơi thô lỗ, đánh con ngay trước mặt giáo viên. Bạn có thể giữ im lặng vì nghĩ đó là quyền giáo dục con của gia đình, chỉ là một giáo viên chủ nhiệm thế nên bạn không có quyền can thiệp. Sẽ có nhiều người lựa chọn phương án xử lý này vì dù sao thì đó cũng là hình phạt thích đáng dành cho một cậu học trò nghịch ngợm.

Thế nhưng liệu học sinh sẽ nghĩ gì về thái độ “thờ ơ”, phó mặc đó của giáo viên chủ nhiệm của mình? Biết đâu em ấy sẽ nghĩ rằng chính việc “tố cáo” của bạn là nguyên nhân đã khiến em phải chịu một trận đòn ngay trước mặt “người ngoài”. Và sự bực tức, thậm chí coi thường cô giáo sẽ ngấm ngầm hình thành trong em ấy và những lời dạy bảo về sau của bạn sẽ trở nên vô tác dụng. Dù học sinh có mắc khuyết điềm thế nào đi chăng nữa thì không một giáo viên nào lại muốn học sinh phải chịu những trận đòn chí mạng. Vì trách nhiệm với học sinh cưa mình, bạn sẽ không thể chọn một giải pháp chỉ vì sự “an toàn” của bản thân được.

Đứng trước tình huống khó xử này bạn nên thật bình tĩnh và khéo léo. Trước hết bạn cần tìm cách chấm dứt ngay hành động đánh con của phụ huynh và phân tích để phụ huynh nhận ra rằng trong việc giáo dục con cái bằng bạo lực không bao giờ đem lại kết quả tốt đẹp mà đôi khi việc đó còn phản tác dụng.

Sau khi phụ huynh đó có vẻ bình tĩnh trở lại, bạn nên bắt đầu câu chuyện của mình một cách thật nhẹ nhàng, cởi mở. Bạn phải giải thích cho phụ huynh hiểu rằng nhà trường luôn coi trọng vai trò của gia đình trong việc phối hợp để giáo dục các em học sinh, nhất là khi chúng phạm lỗi. Dù đó có thể là một học sinh nghịch ngợm, hay thường vi phạm nội quy của trường, lớp nhưng nhà trường không bao giờ mong muốn gia đình lại giáo dục em bằng bạo lực. Vì các em đang ở độ tuổi còn quá nhỏ và mọi thứ chỉ như vừa mới bắt đầu đối với các em, thế nên sự nhẹ nhàng, ân cần nhưng tuyệt đối nghiệm khắc mới có tác dụng khi chúng có lỗi. Bạo lực hay sự xúc phạm quá đáng chỉ khiến chúng dễ nảy sinh tâm lý chống đối và trở nên ương ngạnh hơn mà thôi.

Những cố gắng của bạn sẽ có ý nghĩa hơn chỉ khi thẳng thắn đề xuất với gia đình những biện pháp thật cụ thể để cùng giúp đỡ em học sinh đó trở nên tiến bộ. Sự điềm tĩnh, khéo léo cũng như tình thương yêu, trách nhiệm với học trò chính là điều kiện quan trọng để bạn xử lý thành công tình huống này.

7. Tình huống sư phạm thường gặp: học sinh phá hoại tài sản nhà trường

Tình huống:

Nếu có một học sinh của lớp bạn đang chủ nhiệm tham gia vào việc phá hoại tài sản của nhà trường. Đến khi bạn hỏi về sự việc này thì lại không có em nào nhận lỗi và bạn cũng không có bằng chứng chính xác về việc em đó đã làm? Trong tình huống này, bạn sẽ xử lý như thế nào?

Hướng giải quyết:

Vào giờ sinh hoạt lớp, bạn hãy nói với các em rằng: ” Tài sản của nhà trường không chỉ có riêng các em sở hữu mà nó là của chung, điều này các em cũng đã biết. Nếu các em biết gìn giữ thì nó sẽ luôn đẹp để chúng ta có thể sử dụng trong rất nhiều năm mà nó vẫn như mới Nếu lớp mình có bạn nào đã chót tham gia vào việc phá hoại tài sản của nhà trường thì hãy đứng lên nhận lỗi và các em chỉ bị phạt nhẹ.

Nếu bây giờ các em mà sợ hay ngại không nhận thì sau giờ có thể gặp riêng cô để thú nhận về việc mình đã làm. Cô sẽ không nói ra tên người làm trước lớp. Các em mà không thú nhận lỗi lầm mình đã gây ra thì nhà trường vẫn có cách tìm ra và đưa ra các quyết định kỷ luật đến em đó vì đã vi phạm quy định nhà trường mà không trung thực, không dám chịu trách nhiệm về hành vi của mình và như thế các em sẽ không bao giờ có thể tiến bộ được ”. Đảm bảo khi nói với học sinh như vậy thì chắc chắn các em sẽ nhận ra lỗi mà mình đã gậy ra và thú nhận về việc mình đã làm.

8. Tình huống sư phạm thường gặp: Phát hiện chữ ký giả mạo trong sổ liên lạc của học sinh

Tình huống:

Một lần cô (thầy) giáo trả sổ liên lạc cho học sinh, yêu cầu các em mang về nhà cho bố mẹ xem và ký tên. Thế nhưng, khi cô (thầy) giáo thu lại sổ phát hiện chữ ký trong sổ liên lạc của một em học sinh có chữ kí giả mạo. Nếu bạn là cô (thầy) giáo đó thì bạn sẽ làm gì ?

Hướng giải quyết:

Trong trường hợp này, bạn nên gặp riêng em học sinh đó yêu cầu giải thích : “tại sao em lại làm như vậy? ” và phân tích cho học sinh đó hiểu rằng việc làm của em là hoàn toàn sai, khuyên nhủ em lần sau không được tái phạm nữa. Sau đó, thông báo sự việc với phụ huynh và cùng phối với gia đình để giáo dục học sinh tốt hơn.

9. Tình huống sư phạm thường gặp: Gặp trường hợp bất ngờ khi đang giảng bài

Tình huống:

Giáo viên đang say sưa giảng bài, bỗng có một vị phụ huynh xồng xộc chạy vào lớp và đòi đưa con của mình về đánh vì tội đám lấy trộm tiền ở nhà. Nếu là giáo viên trong tình huống này, bạn sẽ xử sự như thế nào?

Hướng giải quyết:

Bạn nên đề nghị phụ huynh bình tỉnh và chưa cho đón con về ngay mà mời phụ huynh vào văn phòng làm việc. Trước khi làm việc, bạn nên xin phép phụ huynh để bạn tìm hiểu sự việc: Nếu như trẻ lấy trộm tiền là vì muốn mua một đồ vật nào đó, cha mẹ cần phải nghĩ cách lý giải cho trẻ ưng thuận, dau đó tiến hành chỉ dẫn, để trẻ biết rõ là việc “lấy trộm” là không được làm. Nếu như dùng phương pháp thô bạo như “bắt giữ phạm nhân”, thì điều đó sẽ làm tổn thương lòng tự trọng của trẻ.

Đồng thời, nhất định phải nghĩ biện pháp để biết được nguyên nhân vì sao trẻ lấy trộm tiền, mới có thể tìm ra phương pháp ngăn chặn hành vi này một cách triệt để.

Bên cạnh đó, bạn cũng cần giải thích rõ cho phụ huynh biết việc vào trường, xồng xộc chạy vào lớp học khi trong giờ học như vậy là không đúng, không được phép, yêu cầu phụ huynh có bất cứ việc gì cũng cần gặp giáo viên để giải quyết.

10. Tình huống sư phạm thường gặp: học sinh bị trêu chọc

Tình huống:

Giả sử trong lớp bạn chủ nhiệm có một học sinh nghèo, bố mẹ thì li hôn, hay bị các bạn chế diễu, trêu chọc. Là giáo viên chủ nhiệm của lớp, bạn sẽ làm gì trong tình huống này?

Hướng giải quyết:

Đầu tiên, bạn cần tìm hiểu xem em nào hay trêu chọc bạn.

Sau đó, yêu cầu học sinh chấm dứt việc trêu chọc bạn đồng thời phân tích một cách rõ ràng để cả lớp chia sẻ nỗi mất mát về tinh thần của học sinh đó để kịp thời giúp đỡ, chia sẻ với em ấy, giao trách nhiệm dìu dắt nhau cùng tiến bộ.

Gặp riêng phụ huynh của em để trao đổi và yêu cầu phụ huynh động viên học sinh vươn lên bằng nghị lực của mình.

Toán Tư Duy Bằng Tiếng Anh: Lợi Ích Và Phương Pháp Học

Học toán tư duy bằng tiếng Anh đang trở thành xu hướng trên thị trường giáo dục hiện nay. Lý do là bởi học toán tư duy bằng tiếng Anh không chỉ giúp các em học được toán tư duy mà còn nâng cao vốn tiếng Anh. Thế nhưng, nhiều bậc phụ huynh vẫn cảm thấy lo lắng vì sợ con học toán tư duy bằng tiếng Anh sẽ rất nặng và áp lực cho các bé. Vậy cần phải có những phương pháp học như thế nào? Lợi ích của việc học là gì?

1. 6 lợi ích của việc học toán tư duy bằng tiếng Anh

Học toán tư duy bằng tiếng Anh mang đến cho người học nhiều lợi ích. Trong đó có 6 lợi ích nổi bật nhất sau đây

Kích thích tư duy não bộ của trẻ

Toán kết hợp với ngoại ngữ giúp trẻ phát triển trí tuệ

Ngoại ngữ kết hợp với các môn khoa học là điều tốt cho sự phát triển trí tuệ của trẻ. Việc này giúp trẻ có thể định hướng, nhìn nhận vấn đề một cách chủ động và trình bày ý tưởng, quan điểm cá nhân rõ ràng, chính xác hơn. Học toán tư duy bằng tiếng Anh không chỉ giúp trẻ phát triển trí thông minh mà còn phát triển cả khả năng ngôn ngữ. Theo đó kích thích não bộ, giúp trẻ tư duy nhạy bén và toàn diện.

Các bậc phụ huynh thường lo ngại việc học toán tư duy bằng tiếng Anh có thể sẽ gây áp lực với chương trình học nặng. Tuy nhiên, học toán tư duy bằng tiếng Anh qua phương pháp học phù hợp sẽ giảm bớt sự áp lực và khiến trẻ cảm thấy yêu thích học. Bên cạnh đó, học toán bằng tiếng Anh giúp tăng vốn từ và trẻ sẽ được tiếp cận với nhiều từ khơi dậy niềm yêu thích học.

Phát triển tư duy toán học phương Tây

Qua tìm hiểu thông tin báo đài, sách vở các bậc phụ huynh có thể thấy tư duy ngôn ngữ và toán học của trẻ ở Việt Nam vẫn có những điểm khác biệt lớn so với trẻ sinh sống ở nước ngoài. Nếu như học toán ở Việt Nam, người học sẽ học ghi nhớ các công thức, lý thuyết thì ngược lại toán nước ngoài sẽ chú trọng vào phát triển tư duy logic và áp dụng vào thực tế chứ không học lý thuyết suông. Chính vì vậy, người học được học toán tư duy bằng tiếng Anh thông qua các phương pháp học giúp phát triển tư duy và ứng dụng thực tế.

Nâng cao khả năng ngoại ngữ

Học toán bằng tiếng anh sẽ giúp bé tăng vốn từ vựng

Như đã nói, học toán tư duy bằng tiếng Anh ngoài việc tốt cho việc học toán tư duy và thêm kiến thức về toán tư duy cũng như giúp phát triển não bộ, các em còn được trau dồi thêm các vốn từ, công thức viết bằng tiếng Anh. Từ đó, vốn từ tiếng Anh của người học trở nên phong phú, hỗ trợ việc nói tiếng Anh càng ngày càng tiến bộ.

Có cơ hội tham gia các cuộc thi quốc tế

Hiện nay, các kỳ thi toán của Việt Nam không chỉ dừng lại ở mức trong nước mà Việt Nam còn tham gia nhiều cuộc thi quốc tế. Có rất nhiều cuộc thi toán học quốc tế dành cho lứa tuổi tiểu học và trung học như: Toán tư duy quốc tế UCMAS, Olympic toán học quốc tế (IMO), kỳ thi toán học Úc (ACM)… Khi có cơ hội được tham gia các cuộc thi này, các em sẽ được thể hiện năng lực của bản thân, thêm nhiều trải nghiệm, gặp gỡ, giao lưu với bạn bè quốc tế và đặc biệt rút ra được kinh nghiệm cũng như các thành tích đạt được trong tương lai. Việc có được những giải thưởng lớn từ các cuộc thi nước ngoài sẽ góp phần quan trọng khi các em thi đại học, xét học bổng hoặc xin việc hay hơn nữa là đi du học.

Cơ hội đi du học trong tương lai

Định hướng đi du học cho trẻ với phương pháp học toán song ngữ

Việc học toán tư duy bằng tiếng Anh sẽ là định hướng đúng đắn cho bạn nào có dự định sẽ đi du học. Thực tế, tiếng Anh cũng là một môn học không phải dễ mà đòi hỏi một quá trình học tập, rèn luyện liên tục. Học toán tư duy bằng tiếng Anh không chỉ giúp củng cố khả năng tiếng anh mà còn có tác dụng kích thích sự phát triển tư duy lâu bền, tạo nên một hành trang kiến thức vững chắc để trẻ có thể bổ sung, hoàn thiện việc học một cách có hiệu quả. Khi các em học tốt toán tư duy bằng tiếng Anh thì cánh cửa du học sẽ rộng mở và dễ dàng hơn.

2. Phương pháp học toán tư duy bằng tiếng anh

Việc học toán tư duy bằng tiếng Anh ban đầu có thể gây khó dễ và áp lực cho người học. Thế nhưng, khi biết cách học các em sẽ cảm thấy thích thú với môn học này.

Học thuộc các thuật ngữ toán học căn bản bằng tiếng anh

Ghi nhớ các từ ngữ chuyên ngành để việc học toán được dễ dàng hơn

Có thể thấy rằng, việc học toán tư duy bằng tiếng Anh là học 2 trong 1. Các em vừa phải học toán vừa phải học tiếng Anh. Không những thế, học toán tư duy bằng tiếng Anh các em sẽ liên tục gặp phải các thuật ngữ toán học. Những thuật ngữ này ở dạng tiếng Việt thì rất dễ nhớ vì là tiếng mẹ đẻ. Thế nhưng, các thuật ngữ toán học bằng tiếng Anh sẽ khá khó nhớ. Chính vì vậy, việc học thuộc các thuật ngữ toán học căn bản bằng tiếng Anh ngay từ đầu là việc nên làm. Khi các em đã học được những thuật ngữ căn bản thì vào học các em sẽ cảm thấy dễ dàng, thậm chí khi học kiến thức với các thuật ngữ khó hơn sẽ không còn áp lực.

Nắm vững các kiến thức về toán

Học cùng bạn

Có thể các em cảm thấy học một mình sẽ rất yên tĩnh và chăm chú hơn. Thế nhưng, việc có một người bạn học toán tư duy cùng lại là điểm lợi thế. Các em nên chọn một người bạn đồng hành để cùng nhau tìm hiểu và rèn luyện toán tư duy bằng tiếng Anh. Các em có thể cùng trao đổi với nhau và tìm ra đáp án đúng nhất. Thêm vào đó, khi các em cảm thấy mệt mỏi, căng thẳng có thể cùng nhau trò chuyện hoặc chơi các trò chơi để giảm áp lực.

Tự học và hỏi thầy cô giáo

Ngoài những phương pháp học toán tư duy trên, các em có thể học toán tư duy bằng cách tự rèn luyện ở nhà. Việc tự học cũng có những ưu điểm riêng như: có không gian học riêng, tập trung hơn và tự mình có thể khám phá ra nhiều kiến thức hay. Thế nhưng, nếu việc tự học quá khó khăn hoặc loay hoay mãi không tìm được cách giải các em có thể liên hệ hỏi thầy cô giáo. Vì hơn hết thầy cô chính là người giảng dạy các em, có nhiều năm kinh nghiệm nên sẽ hiểu biết nhiều hơn các em.

3. Các dạng bài tập toán tư duy bằng tiếng Anh

Theo như khả năng tiếp nhận kiến thức theo độ tuổi, việc học toán tư duy bằng tiếng Anh hiệu quả sẽ rơi vào khoảng độ tuổi từ 4 đến 14 tuổi, nghĩa là học các lớp mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Do vậy, các dạng bài tập toán tư duy bằng tiếng Anh để các em rèn luyện sẽ có kiến thức phù hợp với giai đoạn vừa nói trên.

Số và chữ số trong phạm vi 10, phạm vi 100, phạm vi 1000;

Phép tính cộng, trừ, nhân, chia trong phạm vi 10, phạm vi 100, phạm vi 1000;

Đại lượng và số đo đại lượng;

Hình học: hình tròn, hình tam giác, hình vuông…

4. Sách toán tư duy bằng tiếng Anh

Bộ sách toán phát triển tư duy bản tiếng Anh và tiếng Việt của tác giả Nguyễn Áng là bộ sách toán tư duy song ngữ khá nổi tiếng hiện nay.

Bộ sách gồm 3 cuốn, cuốn thứ nhất dành cho lớp 1 và 2, phù hợp với lứa tuổi 6 – 8; cuốn thứ hai dành cho lớp 3 và 4, phù hợp với lứa tuổi 8-10; cuốn thứ ba dành cho lớp 5 và chuẩn bị vào lớp 6, phù hợp với lứa tuổi 10-11.

Mỗi cuốn sách được chia thành hai phiên bản, một phiên bản tiếng Việt và một phiên bản tiếng Anh, cung cấp cho học sinh những kiến thức, kỹ năng tư duy toán học, đồng thời làm quen với Tiếng Anh, giúp các em sử dụng ngoại ngữ ngay từ khi còn nhỏ.

Bộ sách toán phát triển tư duy bản tiếng Anh và tiếng Việt

Hiện nay, có rất ít địa chỉ uy tín nào tích hợp dạy toán tư duy cùng với tiếng anh. Tuy nhiên, các vị phụ huynh có thể tham khảo 1 mô hình học toán tư duy uy tín khác là UCMAS.

UCMAS là tổ chức đi đầu trong việc mang đến cho trẻ em toàn cầu có một não bộ khỏe mạnh, ổn định và tư duy phát triển tốt. Cho đến thời điểm hiện tại, UCMAS đã có mặt ở 78 quốc gia. Ở Việt Nam, UCMAS có một đại lý nhượng quyền duy nhất là UCMAS Việt Nam. Chương trình Bàn tính và Số học trí tuệ dành cho trẻ từ 4 đến 14 tuổi phù hợp với khả năng tư duy của trẻ, giúp trẻ có bộ não khỏe mạnh, bền bỉ, xử lý nhanh, học tập và làm việc hiệu quả, đồng thời giúp các em tăng khả năng tập trung, khả năng quan sát, hình dung tưởng tượng, khả năng ghi nhớ và tư duy logic.

Các trung tâm của UCMAS còn thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa và các khóa học tiếng Anh cho các bé. Việc được tham gia nhiều khóa tiếng Anh sẽ giúp bé học trau dồi thêm kiến thức ngoại ngữ ngay từ nhỏ và đặc biệt rất tốt cho việc học toán tư duy bằng tiếng Anh.

Bên cạnh đó, các bé học ở UCMAS còn được tham gia các cuộc thi quốc tế. Đây là cơ hội để bé thể hiện tài năng học toán tư duy bằng tiếng Anh của mình và cũng là cơ hội để tăng khả năng ngoại ngữ.

Bậc phụ huynh quan tâm đến UCMAS – chương trình đào tạo giúp các bé phát triển não bộ một cách toàn diện và khai thác tối đa những tiềm năng của bộ não, giúp bé học tốt toán tư duy bằng tiếng Anh hoặc có thắc mắc về toán tư duy bằng tiếng Anh hãy truy cập website https://ucmasvietnam.com/ hoặc gọi đến 0967868623 để được tư vấn.