Ths. Vũ Thị Thúy
Tạp chí khoa học pháp lý, năm 2010.
Ngày nay, trên thế giới tồn tại hai triết lý giáo dục: thứ nhất, giáo dục trang bị cho người học một lượng kiến thức tối đa làm nền tảng vững chắc cho các hoạt động nghề nghiệp sau này. Thứ hai, giáo dục cung cấp cho người học kỹ năng xử lý các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống, công việc hơn là cung cấp kiến thức cho người học[1]. Trong khi hầu hết các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới đang áp dụng triết lý giáo dục thứ hai thì ở Việt Nam hiện nay, triết lý giáo dục thứ nhất vẫn được áp dụng phổ biến.
Trong thời đại ngày nay, lượng thông tin và tri thức của nhân loại hàng năm tăng theo cấp số nhân. Điều này đòi hỏi con người phải có khả năng thích ứng liên tục và nhanh chóng về cả tri thức và kỹ năng. Vì vậy, nếu trước đây, ưu tiên số một của giáo dục là trang bị kiến thức cho người học, giúp cho người học ghi nhớ được một lượng kiến thức tối đa trong khả năng của họ thì ngày nay các phương tiện lưu trữ thông tin (máy tính, internet…) sẵn sàng cung cấp thông tin một cách nhanh chóng cho con người. Do đó, ưu tiên số một của người học không phải là ghi nhớ tri thức mà là nhanh chóng tiếp cận, vận dụng tri thức mới và sáng tạo ra tri thức mới.
Tình hình đó đòi hỏi giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng phải đổi mới. Nếu như trước đây, giáo dục đại học có thể trang bị cho người học một lượng tri thức để họ có thể sử dụng trong hầu như cả quá trình làm việc của họ thì ngày nay, giáo dục đại học không thể thực hiện được nhiệm vụ đó. Vì vậy, nếu chúng ta chỉ tập trung vào mục tiêu trang bị tri thức cho sinh viên thì thời gian giáo dục đại học dù có tăng lên gấp đôi hoặc gấp ba cũng không thể đảm bảo trang bị đủ tri thức cho sinh viên làm việc suốt đời. Hơn nữa, tri thức nhân loại ngày nay thay đổi nhanh chóng và sớm trở nên lỗi thời. Do đó, nội dung chương trình giảng dạy ở bậc đại học ngày nay cần chú trọng kiến thức nền tảng và kỹ năng tự học, tự nghiên cứu để học viên tiếp tục tự học tập trong tương lai, học suốt đời[2] hơn là chỉ chú trọng việc trang bị tri thức cho người học. Phương pháp dạy và học bằng tình huống phần nào đáp ứng được yêu cầu đó.
Phương pháp dạy và học bằng tình huống lần đầu tiên được phát triển tại đại học MacMaster ở Hamilton, Canada từ đầu thế kỷ 20. Việc sử dụng các tình huống như một phương pháp giảng dạy mới trong khoa học xã hội đã được phát triển bởi nhà xã hội học Barney Glaser và Anselm Strauss vào năm 1967. Tuy nhiên, phương pháp giảng dạy tình huống chỉ được áp dụng phổ biến trong vài thập niên gần đây, nhất là trong lình vực giảng dạy kinh doanh và luật[3].
Hiện nay, trong khoa học giáo dục có nhiều cách định nghĩa khác nhau về tình huống: (1.) Tình huống là những câu chuyện thực tế với những thông điệp nhằm mục đích giáo dục[4]. (2) Tình huống là những thông tin trong đó có chứa đựng mâu thuẫn nhận thức (muốn biết mà chưa biết) không thể giải quyết chỉ bằng sự tái hiện[5]. Có người cho rằng con người bắt đầu tư duy khi có nhu cầu hiểu biết một cái gì đó. Tư duy thường xuất phát từ một vấn đề hay một câu hỏi, từ một sự ngạc nhiên hay một điều trăn trở. Như vậy, tư duy chỉ bắt đầu từ một tình huống có vấn đề – đó là trạng thái tâm lý độc đáo của chủ thể xuất hiện khi chủ thể đó chưa tìm ra hướng giải thích hiện tượng, sự kiện, quá trình trong thực tiễn, khi chủ thể chưa thể đạt đến bằng các cách thức hành động quen thuộc[6].
Những ưu điểm và hạn chế của phương pháp giảng dạy tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm, giảng dạy bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ hai, phương pháp giảng dạy bằng tình huống giúp người học nâng cao khả năng tư duy độc lập, sáng tạo. Nếu trong phương pháp giảng dạy truyền thống, quá trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giảng viên và sinh viên, trong đó giảng viên là người truyền đạt tri thức và sinh viên là người tiếp nhận tri thức đó thì phương pháp giảng dạy tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương tác giữa học viên và giảng viên, giữa các học viên với nhau. Trong đó, học viên được đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quết định đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giảng viên khi giải quyết một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm phong phú hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba, dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận dụng các kiến thức đã học được. Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của nhiều môn học khác nhau. Ví dụ, để giải quyết một tình huống thực tế về vụ một nhóm người chưa thành niên có hành vi dùng dao và gậy cố ý gây thương tích cho người khác, người học phải vận dụng các kiến thức về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, lỗi, đồng phạm, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, xử lý các công cụ, phương tiện phạm tội…
Thứ tư, nghiên cứu tình huống giúp người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng chưa có căn cứ pháp lý hoặc cơ sở lý thuyết để áp dụng giải quyết. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả năng phát sinh những sự kiện mà nhà làm luật hoặc các nhà nghiên cứu chưa dự liệu được. Trong tình huống này, khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả năng người học sẽ tìm ra được những cách lý giải mới.
Thứ năm, phương pháp giảng dạy tình huống giúp cho người học có thể rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công, nhất là đối với sinh viên luật. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu điểm và hạn chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông một cách khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách logic; hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng ghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong phú hơn vốn kiến thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức, kỹ năng và thái độ thì phương pháp giảng dạy tình huống nếu được áp dụng tốt có thể đạt được cả ba mục tiêu này.
Cuối cùng, giảng viên, với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho sinh viên, đồng thời họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học viên đã có quá trình công tác thực tiễn. Qua quá trình hướng dẫn sinh viên nghiên cứu tình huống, giảng viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống còn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ hai, phương pháp học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học, thái độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên, hiện nay có khá nhiều học viên, sinh viên không quen với phương pháp học bằng tình huống, họ không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, không hợp tác nên làm giảm hiệu quả của phương pháp giảng dạy bằng tình huống.
Thứ ba, phương pháp dạy và học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người học. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định, giảng viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic cho sinh viên. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, sinh viên phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp nhiều lần so với phương pháp học truyền thống.
1.3. Nguyên tắc và kỹ năng viết tình huống luật
Khi xây dựng một hệ thống các tình huống để giảng dạy cho một môn học cụ thể, người viết tình huống cần cân nhắc một số vấn đề như: lựa chọn tình huống nào, những chi tiết nào trong tình huống đó được giữ lại, chi tiết nào nên loại bỏ để đạt được mục tiêu của bài giảng. Qua kinh nghiệm giảng dạy môn Luật hình sự và quá trình nghiên cứu và xây dựng các tình huống cho môn Lý luận định tội, chúng tôi rút ra một số kinh nghiệm về nguyên tắc và kỹ năng viết tình huống luật như sau:
Thứ hai, người xây dựng tình huống cần lưu ý tới tính chất thực tế của của vụ án để làm cho người tiếp nhận các sự kiện trong tình huống đó có cảm giác họ đang nghiên cứu một vụ án có thật. Khi xây dựng tình huống luật, chúng ta không chỉ nêu chi tiết, cụ thể các sự kiện diễn ra trong vụ án mà cần đưa ra những thông tin xác thực về thời gian phạm tội, địa điểm vụ án diễn ra cũng như tên bị can, bị cáo, người bị hại… Người viết tình huống cần tránh đưa ra những thông tin mang tính chất giả định như: “Anh A trộm cắp tài sản của B ở tỉnh X vào đầu năm 2009”, mà cần cụ thể hoá thông tin như: “Khoảng 3 giờ sáng ngày 03/01/2009, Nguyễn Văn Hạnh lẻn vào nhà anh Mai Văn Lâm ở số nhà 123/15, đường Bùi Đình Túy, Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh trộm cắp xe gắn máy….”. Việc đưa ra thông tin “thật” này tạo cho người học tâm lý như họ đang nghiên cứu về một vụ án có thật, với những người thật, việc thật và họ được đặt vào trong hoàn cảnh giống như đang được giao một trọng trách với một vai trò cụ thể như thẩm phán, luật sư hay kiểm sát viên trong việc giải quyết vụ án đó. Khi đó họ sẽ cảm thấy hứng thú và có trách nhiệm với những quyết định, lập luận và giải thích của họ trong quá trình nghiên cứu tình huống.
Thứ tư, một tình huống có thể phục vụ để giảng dạy cho một môn học, một bài học hoặc một phần nội dung của bài học. Khi xây dựng tình huống, người viết tình huống cần xác định rõ mục tiêu của việc nghiên cứu tình huống đó để lựa chọn một lượng thông tin vừa đủ cung cấp cho người học. Người viết tình huống cần đặt những câu hỏi như: Tình huống này được sử dụng để giảng dạy bài nào? Mục tiêu của việc nghiên cứu tình huống này là gì? Thông qua việc nghiên cứu tình huống này, sinh viên có thể học được kiến thức lý thuyết gì? Những kỹ năng nào sinh viên có thể đạt được khi nghiên cứu tình huống đó?… Những thông tin đưa ra trong tình huống chỉ cần ở mức độ vừa và đủ để giúp học viên có thể đạt được mục tiêu của bài học. Nếu lượng thông tin đưa ra quá nhiều, có sự kết hợp nhiều nội dung trong một tình huống sẽ gây ra sự nhàm chán, mất thời gian và có thể vấn đề không được giải quyết triệt để, sẽ phá vỡ kết cấu bài giảng. Ví dụ, khi đưa ra một tình huống giúp sinh viên nghiên cứu bài “Quyết định hình phạt”, người viết tình huống đưa ra các tình tiết rắc rối khiến sinh viên tranh luận sôi nổi về vấn đề người thực hiện hành vi trong tình huống đó có lỗi hay không? Đó là lỗi gì? Người đó có phạm tội không?… trên cơ sở đó mới có căn cứ để quyết định hình phạt. Sự tranh luận sa đà vào những vấn đề nêu trên sẽ làm cho sinh viên không hiểu được nhiệm vụ của họ là đang nghiên cứu bài “Quyết định hình phạt” và hệ quả là sinh viên sẽ không nắm được những kiến thức lý thuyết cũng như các kỹ năng của bài “Quyết định hình phạt”. Ngược lại, nếu tình huống quá đơn giản, những thông tin mà tình huống cung cấp không đủ để giải quyết vấn đề sẽ làm cho người học cảm giác như bị đánh đố và họ không có đủ dữ liệu để giải quyết tình huống này. Khi đó, mục tiêu của bài học sẽ không đạt được.
Thứ năm, người viết tình huống cần có sự hiểu biết sâu sắc về người học để xây dựng tình huống phù hợp với khả năng của học viên. Tình huống quá khó sẽ làm cho học viên cảm thấy công việc quá sức và cảm giác tự ti sẽ làm cho người học không còn hứng thú với môn học. Ngược lại, tình huống quá dễ sẽ làm học viên thấy môn học tẻ nhạt, buồn chán, không hữu ích. Vấn đề khó khăn của người viết tình huống là cần hiểu rõ năng lực của học viên, đặt mình vào địa vị của người học để xây dựng những tình huống ở mức độ từ dễ đến khó trong khả năng của phần lớn học viên để họ có thể thực hiện nhiệm vụ của mình được đặt ra trong tình huống và họ thấy hứng thú với môn học.
1.4. Nguồn thông tin dữ liệu giúp xây dựng ngân hàng tình huống
Để đảm bảo độ chân thực của tình huống, chúng ta không nên tự sáng tạo ra các tình huống mà cần lấy “chất liệu” từ cuộc sống. Vì vậy, tìm kiếm nguồn thông tin có vai trò quan trọng giúp chúng ta có thể xây dựng được tình huống tốt. Thông tin dữ liệu xây dựng ngân hàng tình huống có thể khai thác từ các nguồn sau:
– Từ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Các bản án và quyết định của Toà án hoặc hồ sơ giải quyết vụ việc của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là nguồn thông tin quan trọng giúp chúng ta xây dựng ngân hàng tình huống. Ưu điểm của nguồn thông tin này là chúng ta có một bộ hồ sơ hoàn chỉnh về quá trình giải quyết vụ việc từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Vì vậy, người viết tình huống có nguồn dữ liệu dồi dào và khả năng lựa chọn rộng. Họ có thể khai thác nhiều vấn đề trong cùng một hồ sơ vụ án để phục vụ cho nhiều nội dung giảng dạy khác nhau trong chương trình. Khi chúng ta xây dựng tình huống để giảng dạy cho một môn học hoặc một bài học, chúng ta nên lấy dữ liệu từ một hồ sơ vụ án hoàn chỉnh; khi xây dựng tình huống cho một bài học hoặc một nội dung trong bài học, chúng ta có thể chọn lọc một phần dữ liệu trong hồ sơ đó phù hợp với mục đích và yêu cầu của bài giảng. Nguồn dữ liệu từ các cơ quan nhà nước phản ánh một cách chân thực và sống động nhất thực tế xã hội. Thông qua hồ sơ vụ án, người viết tình huống còn có thể biết được quan điểm của cơ quan có thẩm quyền khi giải quyết vụ việc đó và phát hiện độ “vênh” giữa lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, có một điểm hạn chế đáng kể trong việc khai thác nguồn dữ liệu từ các cơ quan có thẩm quyền là chúng ta khó tiếp cận thông tin. Khó khăn này xuất phát từ việc các cơ quan nhà nước thường không muốn cung cấp thông tin cho người nghiên cứu hoặc có thể một phần các dữ liệu từ các hồ sơ vụ việc đó là những thông tin thuộc bí mật nhà nước hoặc bí mật công tác nên chúng ta không thể tiếp cận và sử dụng làm tình huống để giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
– Từ hoạt động thực tiễn của giảng viên
Ngoài nhiệm vụ chính là giảng dạy tại các trường đại học, ngày nay có rất nhiều giảng viên là cộng tác viên, tư vấn cho các doanh nghiệp, văn phòng luật sư, công ty luật hoặc hội thẩm nhân dân tại các tòa án. Trong quá trình hoạt động thực tiễn này, giảng viên sẽ có một vốn tri thức và kinh nghiệm phong phú về lĩnh vực giảng dạy của mình và đây sẽ trở thành một nguồn thông tin quan trọng cho họ khi xây dựng các tình huống phục vụ cho hoạt động giảng dạy. Những kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn này có ưu điểm là được rút ra từ chính những vụ việc mà họ phải giải quyết nên người viết tình huống không những có nguồn thông tin khá đầy đủ mà họ còn có sự hiểu biết sâu sắc về vụ việc.
– Từ người học
– Từ báo chí
Báo chí cung cấp một nguồn thông tin phong phú và đa dạng cho người viết tình huống. Thông thường, những vụ việc được nêu lên trên báo chí đều là những tình huống “có vấn đề” do cuộc sống đặt ra. Điều quan trọng là người viết tình huống cần nhìn thấy được “vấn đề” pháp lý được nêu ra trong một số vụ việc bị báo chí đưa tin và khai thác nội dung thông tin một cách hiệu quả. Người nghiên cứu tình huống luật có thể khai thác thông tin từ các tờ báo như Tuổi Trẻ, Thanh Niên; các trang web như chúng tôi chúng tôi hoặc các tạp chí chuyên ngành như tạp chí Tòa án, Luật học, Khoa học Pháp lý, Nhà nước và Pháp luật… Tuy nhiên, những thông tin từ báo chí thường được tóm tắt ngắn gọn hoặc được nhìn nhận qua “lăng kính” chủ quan của người viết nên gây một số khó khăn nhất định cho người khai thác tình huống. Vì vậy, người viết tình huống cần có những chỉnh sửa hợp lý để phù hợp với nội dung và yêu cầu của bài giảng.
Có ý kiến cho rằng giảng viên có thể sử dụng các tình huống có sẵn từ các tài liệu nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Các tình huống này được chuẩn bị hết sức chuyên nghiệp bởi các chuyên gia. Tuy nhiên, đôi khi các dữ kiện trong tình huống này rất xa lạ với môi trường kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam, khi các tiền đề về thị trường, doanh nghiệp và khách hàng còn rất khác biệt. Quan trọng hơn cả là các tình huống này không phù hợp với hệ thống pháp luật của Việt Nam. Vì vậy, chúng ta có thể nghiên cứu các tình huống của nước ngoài để học hỏi cách thức xây dựng tình huống mà không nên lấy nguyên mẫu tình huống của nước ngoài để giảng dạy luật ở Việt Nam
Nguồn thông tin là yếu tố rất quan trọng để xây dựng một tình huống tốt. Những thông tin này có thể được so sánh với nguyên liệu của quá trình sản xuất. Người viết tình huống không thể ngồi nghĩ ra các tình huống mà không xuất phát từ cuộc sống. Vì vậy, việc lựa chọn nguồn thông tin để khai thác tình huống sẽ giúp người viết tình huống tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức, đồng thời có những tình huống hay, sinh động và đạt được các mục đích, yêu cầu của bài giảng.
1.5. Tổ chức giảng dạy bằng tình huống
Một trong những nhân tố quan trọng đóng góp vào sự thành công trong phương pháp giảng dạy tình huống là hoạt động tổ chức giảng dạy. Khác với phương pháp thuyết giảng, giảng viên là người diễn thuyết đóng vai trò là diễn viên và sinh viên đóng vai trò là các khán giả thì trong phương pháp giảng dạy tình huống, giảng viên đóng vai trò như một người quản trò, một người tổ chức hoạt động giảng dạy. Vì vậy, nếu trong một lớp thuyết giảng, có thể một giảng viên giảng dạy đồng thời cho hàng trăm sinh viên thì trong lớp học bằng phương pháp tình huống, giảng viên chỉ có thể kiểm soát và tổ chức hoạt động giảng dạy cho một số lượng sinh viên hạn chế. Hơn nữa, nếu trong phương pháp thuyết giảng, giảng viên gần như đóng vai trò là người độc thoại nên sự giao tiếp, tương tác giữa người dạy và người học không nhiều thì trong phương pháp giảng dạy tình huống, sự trao đổi giữa người dạy và người học diễn ra thường xuyên. Vì vậy, người dạy cần phải tạo ra được sự cởi mở trong môi trường học tập ngay từ đầu giữa học viên và giảng viên. Ngay từ đầu khoá học, giảng viên nên dành thời gian để làm quen với học viên, đồng thời trao đổi về cách thức làm việc trong toàn khóa học.
Có nhiều cách thức để vận dụng các tình huống vào hoạt động giảng dạy. Các tình huống đơn giản, chúng ta có thể dùng làm các ví dụ minh họa và mở rộng vấn đề cho từng đề mục lý thuyết. Một số tình huống tương đối phức tạp hơn, giảng viên có thể sử dụng để giảng dạy xuyên suốt cả một môn học. Mỗi buổi học đều dùng tình huống này nhưng triển khai ở các bước khác nhau, khai thác các nội dung khác nhau trong cùng tình huống đó. Đây là cách giảng viên cung cấp tính liên kết các nội dung cho người học. Những tình huống phức tạp, có thể giao cho nhóm sinh viên giải quyết trong một học kỳ. Các tình huống lớn có tính chất liên môn học – điều này hiện nay một trường ở Mỹ đã làm, chúng ta có thể làm dưới hình thức một môn học tổng hợp chỉ dạy bằng tình huống hoặc thay hẳn cách làm hiện nay đối với thực tập tốt nghiệp[9].
* Những thách thức đặt ra cho người học và người dạy khi tổ chức giảng dạy bằng tình huống
Những điểm tích cực của phương pháp mới là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, có một số thách thức đặt ra cho cả người dạy và người học trong quá trình ứng dụng phương pháp giảng dạy tình huống và những khó khăn này nếu không được khắc phục sẽ làm giảm hiệu quả của phương pháp giảng dạy tình huống.
– Những thách thức đối với giảng viên
Phương pháp giảng dạy bằng tình huống đòi hỏi giảng viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và đặc biệt là pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một tình huống, giảng dạy trong một học kỳ thì một văn bản pháp luật mới ra đời làm thay đổi hoàn toàn tính chất pháp lý của tình huống đó (như có tội trở thành vô tội). Thực tế này làm tăng đáng kể khối lượng công việc của giảng viên. Để có được một tình huống tốt, đạt được mục đích của bài giảng, sát với thực tế cuộc sống và phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành, giảng viên phải đầu tư nhiều thời gian, công sức, trí tuệ để cập nhật các quy định mới của pháp luật, thu thập, xử lý thông tin và xây dựng tình huống mới. Để làm được những công việc đó, trên hết, giảng viên phải là người có tâm huyết với nghề.
– Những thách thức đối với học viên
Phương pháp học bằng tình huống đòi hỏi học viên phải là người năng động, có tinh thần ham học hỏi, học tập nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo. Phương pháp dạy và học bằng tình huống chỉ đạt được hiệu quả khi có sự hợp tác chủ động, tích cực và sự hăng say học tập của học viên, học viên phải là người biết quản lý tốt thời gian học tập của mình và biết phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Những học viên đã quen với phương pháp học thụ động (thầy giảng, trò nghe), không có tư duy độc lập và không quen phản biện quan điểm của thầy có thể khó thích ứng với phương pháp dạy và học bằng tình huống.
– Một số thách thức thuộc điều kiện khách quan
Thứ ba, cần có sự động viên, khích lệ về tinh thần và chính sách đãi ngộ về vật chất tốt đối với các giảng viên giảng dạy bằng tình huống. Bởi vì đầu tư của giảng viên cho phương pháp giảng dạy bằng tình huống rất lớn. Nếu cơ quan quản lý giáo dục không có sự đãi ngộ thích đáng, giảng viên sẽ không “mặn mà” với phương pháp giảng dạy hao tốn thời gian, trí tuệ và công sức này và sẽ quay về phương pháp diễn giải truyền thống.
Cuối cùng, đây là một phương pháp dạy và học khoa học nhưng đang được ứng dụng chủ yếu theo kinh nghiệm của từng giảng viên. Mặc dù chúng ta thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm về đổi mới phương pháp dạy và học nhưng chưa có một khóa huấn luyện nâng cao về phương pháp giảng dạy bằng tình huống cho giảng viên.
1.6. Đánh giá kết quả học tập của sinh viên theo phương pháp học bằng tình huống
Nếu trong phương pháp học truyền thống, việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên chủ yếu nhằm kiểm tra kiến thức mà sinh viên nhận được từ giảng viên, thì trong phương pháp học bằng tình huống, việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên nhằm kiểm tra cả kiến thức và kỹ năng của sinh viên. Vì vậy, việc đánh giá của phương pháp dạy học bằng tình huống cần phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đào tạo của môn học cũng như của phương pháp giảng dạy học bằng tình huống.
Trong phương pháp học bằng tình huống, các kiến thức lý thuyết được đòi hỏi ứng dụng vào việc giải quyết các vụ việc thực tế, kiến thức của các môn học có sự liên kết với nhau. Vì vậy, đánh giá kết quả học tập của sinh viên cần thể hiện được mối liên hệ giữa lý thuyết và thực hành cũng như mối liên kết giữa kiến thức của các môn học khác nhau.
[1] Ngô Tứ Thành, “Giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy ở các trường Đại học ICT hiện nay”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học xã hội và nhân văn 24 (2008), tr. 237-242.
[2] Ngô Tứ Thành, “Giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy ở các trường Đại học ICT hiện nay”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học xã hội và nhân văn 24 (2008), tr. 237-242.
[3] http://en.wikipedia.org/wiki/Case_study#Case_selection
[4] Clyde Freeman Herreid , “What is a case?, http://ublib.buffalo.edu/libraries/projects/cases/teaching/whatis.html
[5] PGS. TS. Lê Phước Lộc, “Dạy học tình huống và vận dụng trong dạy học thiên văn”, Kỷ yếu Hội nghị Cải tiến Phương pháp dạy học Đại học, Khoa Sư phạm Đại học Cần Thơ, năm 2000, tr. 29-35.
[6] PGS. TS. Lê Phước Lộc, “Dạy học tình huống và vận dụng trong dạy học thiên văn”, Kỷ yếu Hội nghị Cải tiến Phương pháp dạy học Đại học, Khoa Sư phạm Đại học Cần Thơ, năm 2000, tr. 29-35.
[7] “Case study method and definitions”, http://www2.hec.ca/en/casecentre/case/method.html
[8] Nguyễn Quang Vinh, “Đào tạo theo Phương pháp nghiên cứu tình huống”, http://www.baovietnhantho.com.vn/newsdetail.asp?websiteId=3&newsId=633&catId=33&lang=VN
[9] Ths.Vũ Thế Dũng, Khoa quản lý công nghiệp, Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh, “Phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy”, http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/8809.aspx
[10] Ths. Vũ Thế Dũng, Khoa quản lý công nghiệp, Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh, “Phương pháp nghiên cứu tình huống trong giảng dạy”, http://diendan.edu.net.vn/forums/thread/8809.aspx.
Share this:
Twitter
Facebook
Like this:
Số lượt thích
Đang tải…