Top 11 # Xem Nhiều Nhất Đặc Điểm Văn Hóa Việt Nam Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Comforttinhdauthom.com

Những Đặc Điểm Của Văn Hóa Phật Giáo Trong Văn Hóa Việt Nam

Đặc tính Rồng Tiên, theo “Hai ngàn năm Việt Nam và Phật giáo” của Lý Khôi Việt, trang 51 giải thích: “Rồng tượng trưng cho hùng tráng dũng mãnh tung hoành, Tiên biểu tượng cho thanh thoát cao quý, hòa điệu”. Vì có khả năng chuyển hóa và dung hợp của nền văn hóa Việt Tộc (Chủng tộc Việt Nam), dân tộc Việt Nam đã tiếp xúc, hấp thụ và Việt hóa những tinh hoa của các trào lưu văn hóa Đông Tây qua các tôn giáo mang vào như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Thiên Chúa giáo..v..v…. để bồi dưỡng cho nền văn hóa độc lập, tự chủ, nhân bản, bất khuất của Rồng Tiên.

I. Sự quan hệ giữa văn hóa Phật giáo và văn hóa Việt tộc

Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục. Có thể nói văn hóa Phật giáo suốt dòng lịch sử đã hòa mình và hợp nhất với nền văn hóa Việt Tộc trở thành một tổng thể bất khả phân ly qua ngôn ngữ, qua tư tưởng, được biểu lộ nơi mọi sự sinh hoạt xã hội, nơi nếp sống tâm linh. Hai nền văn hóa hợp nhất này đã thể hiện rõ nét trong phong tục tập quán, trong văn học bình dân cũng như trong văn học bác học. Danh từ chuyên môn của Phật giáo như: trí tuệ, từ bi, thiện ác, nhân quả, nghiệp báo..v..v…. nếu tách rời ra khỏi nền văn học Việt Nam thì văn hóa Việt Tộc trở nên khô cằn không còn sức sống tinh anh nữa. Những chứng tích về văn hóa Phật giáo hòa đồng trong nền văn hóa Việt Tộc như sau:

1. Những chứng tích về tục ngữ

Tục ngữ là ngôn ngữ dân gian mà người bình dân Việt Nam thường sử dụng nhằm để trao đổi tư tưởng cho nhau. Những tư tưởng trong ngôn ngữ dân gian được gọi là văn hóa bình dân.

Những danh từ chuyên môn của Phật giáo đã biến thành văn hóa Việt Tộc qua ngôn ngữ của người bình dân Việt Nam thường sử dụng, đã được trao truyền cho nhau trong dân gian mà chúng ta đã thấy tản mát nơi văn học bình dân. Chúng tôi xin đem ra đây một vài câu tục ngữ để chứng minh giá trị sự hội nhập của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Tộc, điển hình như những từ ngữ ” Tội nghiệp quá“, ” Hằng hà sa số“, ” Ta bà thế giới“, ” Lù khù nhưng ông Cù độ mạng “,.v.v…

a) Người bình dân mỗi khi thấy những ai bất hạnh, bị hoạn nạn đau khổ thì liền tỏ lòng thương xót và thốt lên câu: “Tội nghiệp quá”. Hai chữ “tội nghiệp” là danh từ chuyên môn của Phật giáo với ý nghĩa chỉ cho nghiệp báo tội ác đã định. Cụm từ “Tội nghiệp quá!” là câu nói của người bình dân hàm súc hai ý nghĩa: một là quan tòa định tội và hai là tâm tình chia sẻ.

Quan tòa định tội, nghĩa là người này đã gây nghiệp tội ác quá nặng cho nên giờ đây phải chịu quả báo khổ đau không thể trốn tránh nên phán quyết câu: “Tội nghiệp quá!” lên người tội lỗi kia. Tâm tình chia sẻ, nghĩa là thấy họ bị hoạn nạn đau khổ thì bộc lộ tâm tình thương hại thốt lên câu: ” Tội nghiệp quá! ” để san sớt phần nào niềm đau khổ của họ.

b) Người bình dân muốn diễn tả số lượng người ta quá đông đảo hoặc số lượng vật gì quá nhiều không đếm được thì liền dùng câu: “Hằng hà sa số” để tỏ bày. “Hằng hà sa số” là danh từ chuyên môn của Phật giáo với ý nghĩa là số nhiều như cát sông Hằng. Sông Hằng (sông Gange) là chỉ cho một trong hai con sông lớn nhất của Ấn Độ.

Ấn Độ có hai con sông nổi tiếng thế giới là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) và hai con sông này khai nguồn tài nguyên sức sống cho toàn thể dân tộc Ấn Độ phát triển và tồn tại. Trong các kinh luận, Phật giáo cũng thường dùng những ngôn từ Hằng hà sa số nhằm để nói lên số lượng quá nhiều không thể đếm được như đã trình bày ở trên.

c) Khi thấy một số người đi lang thang khắp nơi, sống rày đây mai đó, không chịu dừng chân một chỗ nào lâu dài, người bình dân thường gắn cho họ một ngôn từ đơn giản là kẻ sống “Ta bà thế giới”. “Ta bà thế giới” là ngôn từ chuyên môn của Phật giáo nhằm chỉ cho thế giới tổng hợp bao gồm cả năm cõi mà năm loại chúng sinh sống chung lẫn lộn nhau và sống quan hệ với nhau, như thế giới Địa Ngục, thế giới Ngạ Quỷ, thế giới Súc Sinh, thế giới loài Người, thế giới các cõi Trời và những thế giới nói trên có một danh từ chung là Dục Giới. Thế giới Ta Bà hay Dục Giới là chỉ cho những cõi mà đức Phật Thích Ca làm giáo chủ và Ngài thường xuyên qua lại những cõi đó để hóa độ chúng sinh. Ngôn từ ” Ta bà thế giới ” của Phật giáo đã được Việt Nam tiếp nhận trở thành văn hóa Việt Tộc.

d) Trong xóm làng, có một số người không học thức, không có trình độ văn hóa, không biết đua chen với đời, cứ sống buông trôi cho qua ngày đoạn tháng, nhưng không biết tại sao họ lại được rất nhiều may mắn ngoài khả năng của họ. Đối với những hạng này người bình dân Việt Nam thường dùng ngôn từ ” Lù khù nhưng ông Cù độ mạng” để chỉ sự may mắn nói trên của họ. Hai chữ lù khù là chỉ cho hạng người khờ dạy, ngây thơ, không biết chút gì về cuộc đời. Hai chữ ông Cù, gọi cho đủ là ông Cù Đàm; hai chữ Cù Đàm dịch âm từ chữ Phạn là Gautama, tức là chỉ cho dòng họ của Phật Thích Ca. ” Lù khù nhưng ông Cù độ mạng” nghĩa là những hạng này sở dĩ được may mắn là nhờ đức Phật Thích Ca độ mạng.

Còn nhiều chứng tích khác về tục ngữ đã được hàm chứa sâu sắc tinh thần Phật giáo và những tục ngữ đó hiện đang tàng trử trong kho văn học Việt Nam mà ở đây chúng ta chưa có thì giờ mang ra khai thác để làm phong phú cho nền văn hóa Việt Tộc. Chúng ta hy vọng một ngày nào đó cố gắng thực hiện công trình khai thác văn hóa Việt Tộc thêm được sáng tỏ những tư tưởng thâm sâu của Phật giáo đang ẩn tàng trong nền văn học Việt Nam mà các tiền nhân đã dày công xây dựng.

Ca dao là những câu hò tiếng hát theo giọng điệu tự nhiên, phát xuất từ tâm hồn mộc mạc đầy tình cảm của người bình dân Việt Nam được lưu truyền trong dân gian. Những ca dao này mang tính chất tư tưởng, tình cảm của dân tộc nhằm diễn tả luân lý, đạo đức, tình ý, phong tục, tập quán, trạng thái thiên nhiên, đặc tính xã hội của thời bấy giờ. Tư tưởng Phật giáo thâm nhập vào ca dao Việt Nam tự bao giờ và tản mát khắp tâm hồn của người bình dân, không có ranh giới thời gian cũng như không có khu biệt không gian. Điển hình như những bài ca dao sau đây đượm nhuần tư tưởng của Phật giáo:

a) Người Việt Nam lúc bấy giờ rất tin tưởng triết lý thiện ác nghiệp báo, nhân quả, luân hồi, và ý thức được giá trị nguyên lý duyên sinh (quan hệ với nhau trong sự sinh tồn) của Phật giáo. Để thể hiện tinh thần đùm bọc lẫn nhau, họ thường hát lên những câu hò, những lời ru..v..v…. nhằm tỉnh thức cho nhau nên tránh dữ làm lành, mong mỏi cuộc sống được hạnh phúc an vui lâu đời, đồng thời hy vọng con cháu sau này nương nhờ ân huệ đó tiến thân được lạc nghiệp, cho nên mới ngâm lên hai câu ca dao:

Kiếp này không được, để dành kiếp sau.”

Hai câu ca dao này hàm súc triết lý của đạo Phật rất sâu sắc mà người bình dân thời xưa đã được tiêu hóa trong tâm hồn thành chất liệu sống, ngoài vấn đề tiêu biểu đạo đức của Phật giáo là Ở cho lành và lại còn thể hiện tư tưởng nhân quả luân hồi một cách thâm diệu qua hai câu Kiếp này và Kiếp sau. Họ căn cứ nơi dòng thời gian trải dài từ vô thỉ (trừ vô cực) cho đến vô chung (cọng vô cực) xuyên qua ba giai đoạn quá khứ, hiện tại và vị lai, mà tin tưởng rằng sẽ có kiếp sau vì có kiếp này, cũng như tin tưởng rằng sẽ có ngày mai vì có ngày hôm nay, mặc dù kiếp sau và ngày mai chưa bao giờ đến với họ.

Vì tin tưởng những lý lẽ đó, họ mới khuyên nhau một cách ngọt ngào tha thiết đậm đà bằng hai câu ca dao nêu trên mang theo ý nghĩa tránh dữ làm lành và những điều lành đó tuy rằng không được thụ hưởng ở kiếp này nhưng rồi sẽ được thụ hưởng ở kiếp sau chẳng bao giờ biến mất.

b) Theo lý vô thường của Phật giáo, cuộc đời là giả tạo, kiếp sống của con người là duyên sinh hoàn toàn không có thực thể, không được trường tồn. Sự giả tạo của cuộc đời cũng như sự tạm bợ của kiếp người chẳng khác nào bọt nước, mây trôi, ngựa qua cửa sổ, có đó rồi mất đó, không định trước được ngày mai. Cuộc đời giả tạo cũng như kiếp người tạm bợ là nguyên lý đích thực không một ai thoát khỏi và cũng không một ai chối bỏ được. Người bình dân thời xưa ý niệm được nguyên lý vô thường, cuộc đời giả tạo này một cách tinh tường và tâm hồn họ bộc lộ lên rất thâm thiết qua hai câu ca dao sau đây để tỉnh thức cho nhau với lời khuyên nhiệt tình, bảo rằng đừng đua chen theo lợi danh giả tạo của cuộc đời mà quên hẳn đi giá trị của con người; hai câu ca dao đó như sau:

“Cuộc đời đâu khác loài hoa, Sớm còn tối mất nở ra lại tàn”

Hai câu ca dao trên cho chúng ta nhận thức được người bình dân thời xưa, họ đã thâm hiểu sâu xa lý vô thường của Phật giáo, cho nên khéo dùng hình ảnh sớm nở tối tàn của loài hoa để nói lên một cách chính xác về giá trị tạm bợ của kiếp người cũng như sự giả tạo của cuộc đời. Con người hiện hữu thật rất đúng với ý nghĩa là ” Sống ngày nay dễ biết ngày mai, khoảng đường sinh tử nào hay tỏ tường.”

c) Thời xưa người bình dân thì rất tin tưởng về đạo đức hơn tài năng. Họ cảm thấy những kẻ có tài năng xuất chúng nhưng không tránh khỏi những tai họa đau khổ của cuộc đời mang đến; còn những kẻ không có chút tài năng nào mà lại gặp được nhiều may mắn bất ngờ, cho nên họ mới thốt lên câu: “Có đức không sức mà ăn”. Từ đó họ lấy đạo đức làm kim chỉ nam cho cuộc đời và cổ vũ ai nấy đều phải lấy đạo đức để tô bồi cho nếp sống làm người, thế nên họ mới hát lên hai câu ca dao sau đây để cảnh tỉnh dân gian:

“Lênh đênh qua cửa Thần Phù, Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”

Thần Phù theo “Việt Nam Tự Điển”, là tên của con sông Chính Đại, thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình đổ ra vịnh Bắc Việt. Cửa sông này về sau bị cát bồi thành đất liền và cuối đời nhà Lê dân cư lập thành một Tổng, gọi là Tổng Thần Phù. Người dân lúc bấy giờ thường chèo thuyền qua lại trên cửa sông Thần Phù này, có người thì bị chìm chết và có người thì được thoát nạn.

Văn hóa Phật giáo có thể nói đã hòa mình sâu xa và rộng rãi, biến thành văn hóa Việt Tộc, được thấy tản mát qua những câu ca dao dưới mọi hình thức, trong mọi trạng huống, có chỗ thì bộc lộ cụ thể và có nơi thì gợi ý tâm tình để nói lên ý nghĩa nào đó. Với nội dung trong bài này, chúng ta chỉ đem một vài nét ca dao để minh chứng văn hóa Phật giáo hiện diện trong văn hóa Việt Tộc mà ở đây không thể đem ra lý giải toàn bộ những tư tưởng sâu xa của Phật giáo đã chứa đựng trong nền văn học nói trên.

3. Những chứng tích về văn học bác học

Nền văn học bác học của dân tộc Việt Nam đã được ảnh hưởng bởi nền văn hóa Phật giáo, có thể tạm lấy móc câu khởi điểm từ nền văn học chữ Nôm và tiếp đến nền văn học chữ Hán trở về sau. Đứng trên lĩnh vực nền văn học bác học, văn hóa Phật giáo đã dung hòa vào văn hóa Việt Tộc vô cùng phong phú. Cụ thể như tác phẩm “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, cho đến “Văn học Lý Trần” đã nói lên một cách hùng hồn sự đóng góp rất lớn của văn hóa Phật giáo cho nền văn hóa Việt Tộc.

“Mùi phú quý dữ làng xa mã, Bả vinh hoa lừa gã công khanh. Giấc Nam Kha khéo bất bình, Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.”

Chẳng những thế, mấy đoạn thơ sau đây của thi hào Nguyễn Gia Thiều còn diễn tả thân phận khổ đau của các hạng người chỉ biết chạy theo danh lợi phù du giả tạo, suốt đời trút hết tiềm năng nhựa sống cho bả danh hư mùi phú quý, rốt cuộc thân phận của mình như bọt nước, như mây trôi chẳng được chút gì, để rồi vóc hình của mình trở nên đầu bạc da nhăn, bùn pha sắc xám, chỉ chuốc lấy hoàn cảnh phũ phàng, vẫn mang đau khổ chồng chất:

“Gót danh lợi bùn pha sắc xám, Mặt phong trần nắng rám mùi dâu, Nghĩ thân phù thế mà đau, Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”

b) Kế đến thi hào Nguyễn Du với tác phẩm “Đoạn trường tân thanh”, thi hào căn cứ theo tác phẩm “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân bên Tàu sáng tác thành thi phẩm để gửi gắm tâm sự của mình. Thanh Tâm Tài Nhân thì căn cứ theo học thuyết Thiên Mệnh của Nho giáo tạo dựng tác phẩm “Kim Vân Kiều truyện”. Học thuyết Thiên Mệnh trong “Kim Vân Kiều truyện” là:

“Trời bắt phong trần phải phong trần Muốn thanh cao mới được phần thanh cao”

Nghĩa là Trời đã định sẵn số mệnh của nàng Kiều là phải chết dưới sông Tiền Đường để chấm dứt cuộc đời hồng nhan bạc mệnh.

Ngược lại thi hào Nguyễn Du thì chống đối lại học thuyết Thiên Mệnh của Nho giáo mà Thanh Tâm Tài Nhân tin tưởng, bằng cách nương theo học thuyết Nhân Quả – Nghiệp Báo của Phật giáo xây dựng nên tác phẩm “Đoạn trường tân thanh”. Học thuyết Nhân Quả – Nghiệp Báo trong “Đoạn trường tân thanh” chính là:

“Đã mang lấy nghiệp vào thân Chớ đừng trách lẫn trời gần trời xa Thiện căn bởi tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”

Học thuyết Nhân Quả – Nghiệp Báo đã thay thế học thuyết Thiên Mệnh ở chỗ là không cho nàng Kiều kết thúc cuộc đời bạc mệnh dưới sông Tiền Đường mà phải được sống để tái hợp với Kim Trọng qua sự cứu vớt của sư Giác Duyên. Theo học thuyết Nhân Quả Nghiệp Báo, mối tình đầu giữa nàng Kiều và Kim Trọng chính là Nghiệp Nhân và nàng Kiều được tái hợp với Kim Trọng chính là Nghiệp Quả mà sư Giác Duyên là biểu tượng cho học thuyết của Phật giáo làm gạch nối trợ duyên.

Đại ý cốt truyện của hai tác phẩm vừa trình bày trên nhằm diễn tả những tư tưởng sai biệt của hai học thuyết Phật giáo và Nho giáo; những tư tưởng của hai học thuyết này qua cốt truyện của hai tác phẩm thì luôn luôn nghịch biến với nhau, đồng thời cùng nhau viễn tiến trên hai đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Điều thông minh nhất của thi hào Nguyễn Du ở chỗ, ngoài những áng văn chương linh hoạt ra, thi hào còn khéo léo chuyển đổi từ từ cốt truyện đã được xây dựng trên học thuyết Thiên Mệnh lần lần biến sang học thuyết Nhân Quả – Nghiệp Báo mà không thấy chút kẻ hở khuyết điểm nào, cho nên các đọc giả mỗi khi nghiên cứu đến tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” nếu không để ý thì chẳng thấy được những chỗ độc đáo đó.

Đọc văn cầu lý, chúng ta nhờ nhìn thấy được sự dụng ý độc đáo của thi hào Nguyễn Du trong “Đoạn trường tân thanh” thì vô cùng thán phục và tôn vinh thi hào Nguyễn Du với danh nghĩa xứng đáng là một Thi Hào và cũng là một Văn Hào đáng giá của thời đại.

c) Nền “Văn học Lý Trần” là những chứng tích hùng hồn nhất về sự đóng góp vĩ đại của Phật giáo cho nền văn hóa Việt Tộc và những chứng tích này nói lên được sự phát triển cao độ của văn hóa Phật giáo qua văn hóa Việt Tộc. Dù bất cứ thời đại nào, hoặc thương hay ghét cũng không thể chối bỏ được sự đóng góp này của Phật giáo trong sự tô điểm phồn vinh cho nền văn hóa Việt Tộc trên lĩnh vực độc lập và tự trị. Người nào nếu như có ý bóp méo sự thật về nền văn học Lý Trần thì người đó vô tình đã chà đạp lên nền văn hóa Việt Tộc một cách trắng trợn và người đó cũng là kẻ phản bội dân tộc Việt Nam.

II. Sự đóng góp của Phật giáo cho nền văn hóa Việt tộc

Trong tất cả văn hóa của các tôn giáo, văn hóa Phật giáo đối với nền văn hóa Việt Tộc rất hãnh diện là không có điểm nào xấu xa tội lỗi đã ghi đậm trong lịch sử Việt Nam, nghĩa là văn hóa Phật giáo chưa bao giờ làm tay sai cho bất cứ thế lực vô minh ngoại lai nào chà đạp lên nền văn hóa Việt Tộc, không dựa theo bạo lực phi nhân xây dựng trên xương máu của dân tộc Việt Nam mà còn đóng góp rất lớn cho nền văn hóa Việt Tộc trải dài suốt hai ngàn năm lịch sử kể từ khi lập quốc.

Nguyên do Phật giáo đến với dân tộc Việt Nam trên tình thương và hòa bình, đã chung sống với dân tộc Việt Nam trong sự bao dung, cùng chia sẻ những thăng trầm vinh nhục với dân tộc Việt Nam trải dài hơn hai ngàn năm lịch sử. Dân tộc Việt Nam rất cần sự có mặt của Phật giáo như cần hơi thở, cần cơm ăn áo mặc. Muốn chứng minh những điều nói trên, chúng ta hãy duyệt xét lại sự có mặt cũng như trưởng thành của Phật giáo trên đất nước Việt Nam.

A. Sự có mặt của Phật giáo đất nước Việt Nam

Một số người cho rằng, Phật giáo có mặt đầu tiên trên đất nước Việt Nam là do Phật giáo Trung Hoa truyền vào qua các thời đại thống trị của Trung Quốc. Nguyên vì họ thấy nghi lễ của Phật giáo Việt Nam giống như nghi lễ của Phật giáo Trung Hoa và lễ phục cũng như cách thờ tự của Phật giáo Việt Nam không khác cho mấy về lễ phục và cách thờ tự của Phật giáo Trung Hoa. Họ hiểu như thế là hoàn toàn sai lầm và cạn cợt về nguồn gốc lịch sử Việt Nam. Một số người có ý đồ muốn chối bỏ sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa trong Phật giáo Việt Nam, nhưng họ lại bị ảnh hưởng văn hóa ngoại lai khác và văn hóa đó hoàn toàn xa lạ không có chút nào quan hệ với văn hóa Việt Tộc.

Phải hiểu rằng theo nguồn gốc giống nòi, chủng tộc Việt Nam từ thuở xa xưa là giống Viêm Tộc một trong cộng đồng đa chủng của nước Trung Hoa, bốn ngàn năm trước kỷ nguyên, chủng tộc Viêm Tộc thời đó đã lập quốc ở Động Đình Hồ thuộc hạ lưu sông Dương Tử nằm giữa nước Tàu với danh xưng là Bách Việt. Chủng tộc Viêm Tộc phát nguồn từ giống Mésopotamie và Turkestan (“Lịch sử văn minh Trung Quốc” của Will Dutant do Nguyễn Hiến Lê dịch, Văn Nghệ xuất bản, trang 19 – 20). Đặc tính chủng tộc Viêm Tộc có thể ảnh hưởng rất nhiều đặc tính của cộng đồng đa chủng nước Trung Hoa. Cho nên sự thông minh của dân tộc Việt Nam không thua sự thông minh của người Trung Hoa.

Qua những dữ kiện đó, chúng ta đừng ngạc nhiên khi thấy sự sinh hoạt của dân tộc Việt Nam tại sao lại giống với sự sinh hoạt của người Trung Hoa về mọi lĩnh vực như tình cảm, ăn mặc, tín ngưỡng..v..v…. đấy là sắc thái văn hóa tổng hợp của Việt Tộc. Riêng về Phật giáo, văn hóa của Phật giáo Việt Nam cũng là một loại văn hóa tổng hợp của hai nền văn hóa Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Hoa. Muốn biết sự tổng hợp như thế nào của hai nền văn hóa Ấn Hoa, chúng ta trước hết phải khảo sát thời gian sự có mặt của Phật giáo Ấn Độ trên đất nước Việt Nam và trên đất nước Trung Hoa để ấn định giá trị. Thời gian có mặt của Phật giáo Ấn Độ trên hai đất nước này được nhận định như sau:

1. Theo sử liệu, Phật giáo có mặt trên đất nước Việt Nam so với Trung Quốc kể từ đầu kỷ nguyên Tây Lịch trở về trước thì cách xa khoảng hơn 300 năm. Theo quyển “Đạo Phật và dòng sử Việt” của Hòa thượng Đức Nhuận, trang 18 – 19 ghi: Phật giáo phát nguồn từ Ấn Độ đầu tiên được truyền đến Việt Nam vào khoảng 300 năm trước Tây Lịch do phái đoàn của vua A Dục tổ chức và hai vị sư cầm đầu phái đoàn tên là Soma và Uttara. Tại Đồ Sơn thuộc Giao Chỉ, cách Hải Phòng 12 cây số, có một bảo tháp tên là A Dục Vương (Asoka) do hai nhà sư Ấn Độ của phái đoàn nói trên xây dựng nên.

Về sau bảo tháp này bị hư hoại và đến khoảng giữa thế kỷ XI Tây Lịch, vua Lý Thánh Tông lại xây một bảo tháp khác nơi bảo tháp nói trên lấy tên là Tháp Tường Long, nhưng ngày nay ngôi bảo tháp Tường Long được cải biến thành ngôi chùa mang nhãn hiệu là Chùa Tường Long. Tiểu sử về hai ngọn bảo tháp A Dục Vương và Tường Long còn để lại một bài thơ với nhan đề là ” Tháp sơn hoài cổ ” và bài thơ này tả cảnh về hai bảo tháp nói trên. Bài thơ đó được dịch nghĩa như sau:

“Tháp xưa lau cỏ tốt bời bời, Vua Dục đi vua sau cũng đổ rồi! Chuông nặng ngàn cân kêu đáy nước, Chú tiều dựng củi nằm đo đá, Trẻ mục lùa trâu vội xuống đồi. Lên núi muốn cùng Sư giảng kệ, Chuông đâu mà đánh thử một hồi?!”

Cũng trong “Đạo Phật và dòng sử Việt” của Hòa thượng Đức Nhuận, trang 20 – 21 ghi rằng: Vào khoảng 435 trước Tây Lịch, phò mã Chữ Đồng Tử và công chúa Tiên Dung Mỵ Nương, cháu của Hùng Vương đời thứ 3, thọ giáo với sư Phật Quang (Sư Bần) tại chùa Hang nơi Đồ Sơn thuộc cửa biển của sông Thái Bình, tỉnh Hưng Yên. Hiện nay tỉnh Hưng Yên có đền thờ Chữ Đồng Tử bên bờ sông Thái Bình.

Trong thời gian từ 300 năm trước Tây Lịch vừa kể trên, Trung Quốc hoàn toàn chưa biết gì về Phật giáo cả. Mãi đến năm 67 Tây Lịch, Trung Quốc mới bắt đầu có Phật giáo với những tác phẩm Tứ Thập Nhị Chương, Thập Địa Đoạn Kết Kinh, Pháp Hải Tạng Kinh, Phật Bản Hạnh Kinh, Phật Bản Sinh Kinh, Nhị Bách Lục Thập Giới Hợp Dị do hai vị sư Ma Đằng và Trúc Pháp Lan người Tây Vực dịch ra chữ Hán tại chùa Bạch Mã. Hai vị sư này do Hán Linh Đế thỉnh từ Tây Vực sang để truyền bá Phật giáo tại nước này.

2. Song song với Phật giáo Trung Quốc vào đầu kỷ nguyên Tây Lịch, theo “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang, quyển I, trang 12 – 13: Phật giáo Việt Nam đã phát triển lớn mạnh tại Giao Châu với một trung tâm gọi là trung tâm Luy Lâu, hiện nay trung tâm này thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Trung tâm Luy Lâu được các nhà sư Ấn Độ từ nơi hai trung tâm Amaravati và Nagarjunakonda thuộc Phật giáo Đại thừa đến đây xây dựng và trung tâm Luy Lâu này đã đào tạo rất nhiều nhân tài lỗi lạc. Vào khoảng thế kỷ thứ II Tây Lịch, một nhân vật nổi tiếng xuất thân từ trung tâm Luy Lâu chính là Mâu Bác với tác phẩm “Lý hoặc Luận” mang tính chất tư tưởng Đại thừa và tác phẩm này có giá trị tuyệt đỉnh, lý luận sắc bén, phát huy giáo nghĩa cao thâm của Phật giáo.

Bên Trung Quốc, sau Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, khoảng thời gian 80 năm sau Tây Lịch vào thời đại Hậu Hán, có ngài An Thế Cao và ngài Chi Lâu Ca Sấm từ Ấn Độ sang Trung Quốc tiếp tục truyền bá Phật giáo tại nước này (“Lịch sử Phật giáo Trung Quốc” của Thích Thanh Kiểm, trang 7 và 8).

3. Cũng theo “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang, trang 73 và 76: Vào khoảng thế kỷ thứ III Tây Lịch, Thiền tông Việt Nam có trước Thiền tông Trung Quốc và người đầu tiên sáng lập Thiền tông Việt Nam là Thiền sư Khương Tăng Hội với quyển kinh An Ban Thủ Ý làm kim chỉ nam. Thiền sư Khương Tăng Hội xuất thân từ trung tâm Luy Lâu. Trong thời gian này, Trung Quốc chỉ có Thiền học mà chưa có Thiền tông do nhóm người của ngài An Thế Cao đầu tiên phát huy. Mãi đến thế kỷ thứ VII Tây Lịch, Trung Quốc mới có Thiền tông xuất hiện do Bồ Đề Đạt Ma chủ trương.

4. Có một số người lầm lẫn rất lớn cho rằng Tỳ Ni Đa Lưu Chi là đệ tử của Tăng Xán và những người quan niệm như thế là chịu ảnh hưởng sâu đậm theo lối nhận thức của người Trung Quốc thống trị; người Trung Quốc thống trị luôn luôn chủ trương rằng tất cả phong tục, tập quán,..v..v…. kể cả văn hóa Phật giáo Việt Nam đều do Tàu bang ân huệ cho. Trên thực tế Tỳ Ni Đa Lưu Chi không phải là đệ tử của Tăng Xán, mặc dù hai vị có yết kiến với nhau. Tỳ Ni Đa Lưu Chi là người của Mật tông Ấn Độ với ba quyển kinh Tượng Đầu, Báo Nghiệp Sai Biệt và Tổng Trì, lẽ dĩ nhiên trong Mật tông cũng có phương pháp thiền định, nhưng phương pháp thiền định của họ theo kiểu Mật giáo.

Tỳ Ni Đa Lưu Chi mục đích đến Trung Quốc là muốn nương tựa Thiền viện của Thiền tông Trung Hoa để truyền bá tư tưởng Mật tông nên mới diện kiến với Tăng Xán để giao duyên sơ ngộ. Khi gặp Tăng Xán, Tỳ Ni Đa Lưu Chi tỏ ra lịch sự liền chấp tay chào hỏi ba lần. Hiện tượng ngồi yên không trả lời của Tăng Xán là tỏ thái độ không chấp nhận sự có mặt của Tỳ Ni Đa Lưu Chi nơi thiền viện vì ông này không đồng tư tưởng với mình. Theo phép xã giao, Tỳ Ni Đa Lưu Chi kính trọng bằng cách đảnh lễ ba lạy với hy vọng Tăng Xán cởi mở tâm tình chấp nhận cho mình được nương tựa nơi thiền viện. Không ngờ Tăng Xán quá tự phụ và còn đuổi khéo bảo Tỳ Ni Đa Lưu Chi nên về phương Nam để truyền đạo.

Tỳ Ni Đa Lưu Chi đảnh lễ Tăng Xán không có nghĩa là thọ giáo làm đệ tử, nguyên vì Tỳ Ni Đa Lưu Chi khi sang Việt Nam chỉ trao truyền Mật tông cho Pháp Hiền mà không bao giờ trao truyền Thiền tông theo kiểu Tăng Xán. Điểm đáng ghi nhận trong Thiền tông, Bồ Đề Đạt Ma thì gối đầu kinh Lăng Già Tâm Ấn làm phương châm cho phái Thiền, Tăng Xán thì gối đầu “Tam Luận Tôn” làm phương châm, Hoằng Nhẫn và Huệ Năng thì gối đầu kinh Kim Cang làm phương châm, Tỳ Ni Đa Lưu Chi thì gối đầu Tổng Trì làm phương châm và Khương Tăng Hội thì gối đầu kinh An Ban Thủ Ý làm phương châm.

B. Sự đóng góp của Phật giáo cho đất nước Việt Nam

Trên con đường dựng nước và phát triển đất nước từ Nam Quan đến Cà Mau, ba tông phái có công rất lớn cho nền văn hóa Việt Tộc chính là Thiền tông, Mật tông và Tịnh độ tông. Ba tông phái này như cái đỉnh ba chân đứng vững vàng trên đất nước Việt Nam và cũng là nền tảng cho các phái Thiền khác nảy nở và phát triển trong mảnh đất thân yêu của dân tộc Việt Nam.

1. Trong thời kỳ lập quốc, Thiền tông Vô Ngôn vào thế kỷ thứ IX Tây Lịch đầu tiên đã đóng góp công trình rất lớn vào việc lập quốc qua nhân vật lịch sử nổi tiếng là Thiền sư Khuông Việt. Thiền sư Khuông Việt tên là Ngô Chân Lưu cố vấn chính trị cho Đinh Bộ Lĩnh lập nên đế nghiệp với chức vụ Khuông Việt Thái sư và tiếp theo được Đinh Tiên Hoàng tấn phong chức Tăng Thống để lãnh đạo Phật giáo. Ngoài ra Thiền phái này còn sản xuất rất nhiều nhân tài lỗi lạc như, Thái Tông, Thánh Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ..v..v….. đã tạo được thế đứng cho tông phái Thiền trong lòng dân tộc qua các triều đại.

Nhìn về quá khứ của hệ phái Thiền trong tiến trình hệ thống truyền thừa kể từ Ấn Độ cho đến Việt Nam được ghi nhận, trước hết đức Phật Thích Ca truyền thừ phái Thiền bằng cách Tải Vật Ấn Ký, nghĩa là đức Phật cầm một vật gì đưa lên trước đại chúng và vị nào trong đại chúng ngộ được ý của Phật qua vật đó là chứng được Thiền, trường hợp như đức Phật thọ ký tổ đầu tiên cho phái Thiền là ngài Ca Diếp với phương pháp Tải Vật Ấn Ký nói trên. Về sau các Tổ kế tiếp truyền thừa phái Thiền bằng cách Dùng Kệ Ấn Ký, nghĩa là các thiền sinh sáng tác những bài Kệ Tụng liền đệ trình lên Tổ và Tổ ấn ký cho bài kệ tụng nào thì vị sáng tác bài kệ tụng đó liền được chứng Thiền.

Thiền tông khi đến Trung Quốc thì có phần hơi khác về cách truyền thừa. Cách truyền thừa của Thiền tông Trung Quốc kể từ nơi Bồ Đề Đạt Ma là sử dụng Y Bát trao truyền để định mức giá trị chứng đắc của các đệ tử gọi là Tổ Tổ Tương Truyền và cách truyền thừa này truyền mãi đến ngài Huệ Năng mới bỏ phương pháp Y Bát Truyền. Sang Việt Nam, Thiền Tông Vô Ngôn thì truyền thừa bằng phương pháp Gia Phả, nghĩa là sử dụng Điệp Phái ghi danh sự chứng đắc của đệ tử để trao sự nghiệp kế thừa Tổ Truyền. Về sau mãi đến năm 1712 Tây Lịch, Thiền tông Lâm Tế thuộc phái Nguyên Thiều mới đổi phương pháp truyền thừa theo lối Thi Kệ, nghĩa là các đệ tử trình lên Tổ những bài Thi Kệ và Tổ ấn ký bài thi kệ nào là vị đó chứng Thiền.

Khi được chứng Thiền, vị được ấn ký nói trên liền trở thành Tổ và có quyền thành lập một hệ phái Thiền riêng theo bài thi kệ đắc pháp của mình, nghĩa là vị Tổ đã được chứng Thiền liền sử dụng những chữ trong bài thi kệ đắc pháp tuần tự đặt Pháp Danh cho đệ tử theo dòng kệ vừa được ấn ký để truyền thừa. Bao nhiêu dữ kiện vừa trình bày trên cũng đủ nói lên được những điểm đặc sắc của hệ phái Thiền từ Ấn Độ cho đến Việt Nam.

2. Kế đến Mật tông Tỳ Ni cũng tiếp theo sự nghiệp của Thiền tông Vô Ngôn, đào tạo rất nhiều long tượng xứng đáng, thông bác mọi mặt như văn hóa, chính trị, ngoại giao, tôn giáo..v..v…. hậu thuẫn cho các triều đại kể từ triều đại Tiền Lê cho đến triều đại Nhà Tiền Lý suốt hơn 215 năm phát triển quốc gia. Riêng trong triều đại Tiền Lê, vào khoảng 980 Tây Lịch, một nhân vật nổi bậc nhất với danh nghĩa Quốc sư Pháp Thuận xuất thân từ Mật tông Tỳ Ni; theo “Việt sử toàn thư” của Phạm Văn Sơn, từ trang 161 đến trang 168, người đã đưa Lê Đại Hành từ địa vị Tiết Độ Sứ Giao Châu lên đến chức vị Nam Bình Vương.

Tiếp theo cũng trong Mật tông Tỳ Ni, một nhân vật thứ hai vô tiền khoáng hậu là Quốc sư Vạn Hạnh, người đã tạo thế đứng kiên cố nhất cho dòng họ đời Lý suốt 215 năm. Quốc sư Vạn Hạnh ngoài sự chứng đắc về Mật giáo, còn thông bác cả chính trị và ngoại giao, khéo liên kết và dung hợp các khuynh hướng văn hóa, chính trị và tôn giáo biến thành chất liệu keo sơn để làm nền tảng vững chắt cho triều đại nhà Lý xây dựng đất nước. Theo “Thiền học Việt Nam” của Nguyễn Đăng Thục, trang 207 đến 222, dưới triều đại nhà Lý, nước Việt Nam lúc bấy giờ với danh xưng là Đại Cồ Việt đã có bảy trào lưu văn hóa và tín ngưỡng khác nhau như:

a.Văn hóa Động Cổ cũng gọi là Văn hóa Đông Sơn,

b.Văn hóa Cổ Mộ cũng gọi là Văn hóa Lạch Trường,

c.Văn hóa Phật Ấn của Tỳ Ni Đa Lưu Chi,

d.Văn hóa Phật Hoa của Vô Ngôn Thông,

e.Văn hóa Bà La Môn của Chiêm Thành và Chân Lạp,

f.Văn hóa Hán Nho của Chư Tử và Sĩ Nhiếp,

g.Văn hóa Lạt Ma Tây Tạng của Nam Chiếu.

Quốc sư Vạn Hạnh đưa ra triết lý Dung Tam Tế nhằm mục đích dung hợp bảy trào lưu văn hóa tín ngưỡng dị biệt vừa kể trên tạo thành “Trung Lưu Chỉ Trụ”, nghĩa là nền văn hóa Việt Tộc đứng vững giữa dòng sông tư tưởng để làm nền tảng căn bản cho triều đại nhà Lý phát triển.

Về sau Vua Lý Nhân Tông (1072-1127) có làm bài thơ ca ngợi Quốc sư Vạn Hạnh:

Quốc sư Vạn Hạnh dung thông được ba cõi (cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc), Đúng với phù hiệu tiên tri của thời cổ xưa, Quê hương danh tiếng là Cổ Pháp (kinh đô Phật giáo Việt Nam thời xưa), Quốc sư đem gậy Mật giáo bảo vệ lãnh thổ quốc gia.

3. Tịnh độ tông thì góp mặt trên đất nước Việt Nam tự bao giờ không có lịch sử, nhưng hiện nay đã trở thành tín ngưỡng của dân gian. Người đời sở dĩ biết đến tông phái này là nhờ tín ngưỡng Quan Thế Âm. Tín ngưỡng Quan Thế Âm có thể phát xuất từ văn hóa Nam Chiếu và cũng có thể phát xuất từ văn hóa Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Văn hóa Nam Chiếu theo sử liệu thì chịu ảnh hưởng văn hóa Tây Tạng và văn hóa Tây Tạng lại tôn vinh đức Quan Thế Âm trên hết. Hơn nữa biểu tượng cho văn hóa Quan Thế Âm chính là chùa Một Cột mà chùa Một Cột đã được vua Lý Thái Tông xây dựng vào năm 1049 Tây Lịch và chùa này thì lại thờ đức Quan Thế Âm với hình tướng đức Phật Chuẩn Đề.

Theo Mật tông đức Phật Chuẩn Đề là hóa thân của đức Quan Thế Âm và chùa Một Cột lại được xây dựng dưới sự chỉ đạo của hệ phái Mật tông Tỳ Ni trong triều đại Nhà Lý. Do đó tín ngưỡng Quan Thế Âm có thể xác định là xuất phát từ văn hóa Nam Chiếu và văn hóa Mật tông Tỳ Ni. Những nơi còn quan hệ thêm nữa với giai thoại Quan Thế Âm như giai thoại Quan Thế Âm cũng là tín ngưỡng của dân Chiêm Thành và cũng là tín ngưỡng của dân Trung Hoa Mạc Cửu tại miền Nam Việt Nam. Bao nhiêu dữ kiện vừa trình bày qua cũng đủ chứng minh cho sự có mặt của Tịnh độ tông trên đất nước Việt Nam.

Ngoài ra Tịnh độ tông trở thành niềm tin mạnh nhất của dân tộc Việt Nam cũng có thể một phần nào chịu ảnh hưởng trực tiếp từ Tịnh độ tông của triều đại nhà Đường và Tịnh độ tông của nhà Đường hòa nhập vào Việt Nam qua cánh cửa tín ngưỡng Quan Thế Âm trong thời gian lệ thuộc nước Tàu. Cụ thể hơn nữa Tịnh độ tông sau này trở thành văn hóa Việt Tộc phải nói đến là nhờ công lao lớn nhất của Chúa Nguyễn Hoàng ra tay xây dựng.

Vào khoảng năm 1528, Chúa Nguyễn Hoàng vào Nam lập quốc, sống trên đất tín ngưỡng của Chiêm Thành và Thủy Chân Lạp, liền chủ trương “Thiền Tịnh song tu” để xây dựng và mở mang đất nước miền Nam. Theo chủ thuyết “Thiền Tịnh song tu” của Chúa Nguyễn, Thiền tông thì có bổn phận chỉ đạo và Tịnh độ tông thì có bổn phận kết hợp và dung hóa để tạo thành tài nguyên sung túc làm hậu thuẩn cho nhà Nguyễn trên con đường mở nước. Thiền tông của Chúa Nguyễn chính là Thiền tông dùng kệ truyền thừa của Lâm Thế Nguyên Thiều mà không phải là Thiền tông Trúc Lâm Tam Tổ và cũng không phải là Thiền tông Thảo Đường.

Tịnh độ tông của Chúa Nguyễn đi vào văn hóa Việt Tộc với hai biểu tượng song hành chính là chùa làng và đình làng, hai biểu tượng này đã được xây dựng trải khắp miền Nam Việt Nam, từ thành thị đến nông thôn, nghĩa là chỗ nào có làng là chỗ đó chùa và có đình. Về sau chủ thuyết “Thiền Tịnh song tu” của Chúa Nguyễn phát triển lan tràn ra miền Bắc trở thành văn hóa toàn diện là khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước.

Thiền tông Trúc Lâm là thiền phái thuần túy của Việt Nam do người Việt Nam sáng lập mà tổ đầu tiên tạo dựng thiền phái này vào khoảng năm 1228 Tây Lịch chính là Trần Thái Tông. Thiền tông Trúc Lâm là biểu tượng sự tiến hóa của nền văn hóa Phật giáo trên đất nước Việt Nam mà nó không phải là thiền phái hội nhập vào văn hóa Việt Tộc, nguyên vì thiền phái này chỉ dành riêng cho giai cấp thượng lưu trí thức đương thời tu tập và nó không có tính cách phổ quát trong mọi tầng lớp dân gian.

Hơn nữa suốt 180 năm của thời đại Nhà Trần, Nho giáo mới chính là chính thống nhập thế tích cực, đóng vai trò chủ yếu của truyền thống văn hóa Việt Tộc và trong thời gian đó vai trò Phật giáo mà đại biểu là Thiền tông Trúc Lâm thì có tính cách yếm thế tiêu cực, chỉ dành riêng cho những hạng hưu trí hồi quan nương thân vào thiền môn để an thân thủ phận. Thiền phái này chỉ truyền thừa được ba đời thì chấm dứt gọi là “Trúc Lâm Tam Tổ”, mặc dù về sau cũng còn một vài ngôi chùa nối tiếp sự nghiệp Thiền phái Trúc Lâm, nhưng rồi cũng chìm trong quên lãng, vì họ không tạo được thế đứng trong tâm hồn dân gian.

5. Riêng Thiền tông Thảo Đường thì được thành lập vào khoảng năm 1069 Tây Lịch và người thành lập chính là Thiền sư Thảo Đường, đệ tử của Thiền sư Tuyết Đậu Minh Giác bên Tàu. Người được truyền thừa tâm ấn của Thiền sư Thảo Đường chính là vua Lý Thánh Tông, tổ thứ hai của Thiền tông Thảo Đường. Đặc biệt hơn hết từ xưa đến nay ở Việt Nam, Thiền tông Thảo Đường thuộc về loại thiền mang sắc thái Nghệ Thuật và Thi Ca. Trong văn học Việt Nam có rất nhiều tác phẩm thi thơ mang chất liệu văn hóa thiền qua nghệ thuật âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc..v..v… và tất cả đều chịu ảnh hưởng sâu xa của Thiền tông Thảo Đường.

Theo “Việt Nam Phật giáo sử lược” của Thích Mật Thể, Thiền tông Thảo Đường chỉ truyền thừa được năm đời và đắc đạo được mười chín người. Nhưng nghệ thuật, thi ca của Thiền phái Thảo Đường thì đã ăn sâu vào tâm hồn dân gian và từ đó biến thành văn hóa Việt Tộc không có ranh giới thời gian, không gian và được lưu truyền mãi mãi về sau. Hiện nay chất liệu văn hóa nghệ thuật thi ca của Thiền phái Thảo Đường vẫn còn sống dậy dạt dào trong tâm hồn dân gian Việt Nam. Điển hình như hiện giờ, nào là thơ thiền, hội họa thiền, điệu khắc thiền, kiến trúc thiền, dân ca thiền..v..v…. thi đua xuất hiện và tràn ngập khắp mọi nơi, truyền đến mọi tầng lớp dân gian và có thể nói tất cả đều chịu ảnh hưởng đậm đà của văn hóa Thiền phái Thảo Đường.

Qua những dữ kiện vừa chứng minh ở trước, Phật giáo Việt Nam vô cùng hãnh diện là Phật giáo Việt Nam đầu tiên không phải do Phật giáo Trung Quốc truyền sang mà chính là do Phật giáo Ấn Độ mang đến. Gần 3000 năm lịch sử, Phật giáo Ấn Độ đã mang đến cho dân tộc Việt Nam với bao tâm hồn thân thương, hòa ái, bao dung, che chở, đã tô đậm lên những nét son lịch sử sáng ngời.

Phật giáo Ấn Độ đi vào mảnh đất Việt Nam trong sự vinh quang tuyệt đỉnh, tưới lên chất liệu từ bi, hun đúc địa linh nhân kiệt, tạo nên sinh mệnh giống nòi, đem nguồn trí tuệ sáng soi, dẫn dắt con dân nước Việt khai thông sinh lộ, mở mang bờ cõi, bồi dưỡng ý chí kiên cường bất khuất cho con Lạc cháu Hồng bằng chất liệu dũng cảm tinh tấn, đủ sức kiên trì nhẫn nhục, vượt qua mọi gian nguy, vun xới cơ đồ, giữ gìn gia nghiệp muôn thuở để lại cho con cháu mai sau.

Người Việt Nam đầu tiên hân hoan đón nhận hạt giống Bồ đề Phật giáo Ấn Độ mang chất liệu từ bi, trí tuệ và dũng mãnh, tinh tấn gieo trồng vào mảnh đất Việt Nam chính là phò mã Chữ Đồng Tử và công chúa Tiên Dung, cháu của Hùng Vương đời thứ III ngỏ hầu làm cây đại thọ chở che cho giống nòi tương tựa. Từ đó về sau con Lạc cháu Hồng cứ tiếp tục gieo trồng cây Bồ đề Phật giáo Ấn Độ lan rộng khắp nơi trên mảnh đất quê hương.

Chất liệu cây đại thọ Bồ đề Phật giáo Ấn Độ cũng từ đó kết tinh thành sinh mệnh của Việt Tộc mở cửa đón nhận tất cả trào lưu tư tưởng Phật giáo đến từ khắp nơi, dung hàa và tô bồi nền văn hóa Việt Tộc trở nên phong phú phồn vinh. Lúc bấy giờ sinh mệnh của Việt Tộc và sinh mệnh của Phật giáo cùng nhau hòa hợp xây dựng thành Phật giáo Việt Nam trải dài hơn hai ngàn năm lịch sử hun đúc thành những tuấn kiệt hùng anh, những long tượng phi phàm bao gồm cả quốc gia và Phật giáo góp phần công đức vô lượng vào việc vun xới cơ đồ mở mang bờ cõi phát huy chính pháp từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau.

Nhìn riêng về Phật giáo Việt Nam, vào thế kỷ thứ II Tây Lịch, những long tượng nổi bậc nhất xuất thân từ trung tâm Luy Lâu phải kể đến hai nhân vật Mâu Bác và Khương Tăng Hội. Theo “Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang, chương I, trang 14: Trung tâm Luy Lâu là trung tâm đầu tiên của Phật giáo, hiện nay thuộc phủ Thận Thành, tỉnh Bắc Ninh; trung tâm này đào tạo nên hai nhân vật nổi tiếng đương thời là Mâu Bác với tác phẩm “Lý hoặc Luận” thuộc luận học và Khương Tăng Hội với tác phẩm “An Ban Thủ Ý” thuộc thiền học. Hai vị đây đã phát huy chính pháp sáng rực một thời trong vòm trời Việt Nam.

Kế đến vào thời kỳ tự chủ nhà Đinh lấy móc câu từ 968 Tây Lịch trở về sau làm chuẩn đích, các hệ phái Phật giáo Việt Nam như Thiền tông, Mật tông, Tịnh độ tông..v..v…. suốt dòng lịch sử đã cùng nhau nối tiếp khai sơn phá thạch, vun xới cơ đồ phát huy chính pháp, đắp xây nền văn hiến Lạc Việt lưu truyền vĩnh cửu cho mai hậu.

Các hệ phái Thiền tông, Mật tông và Tịnh độ tông nói trên đã đào luyện rất nhiều long tượng tinh anh, như Khuông Việt Ngô Chân Lưu..v..v….thuộc hệ phái Vô Ngôn, như Quốc sư Pháp Thuận, Quốc sư Vạn Hạnh..v..v…. thuộc hệ phái Mật siáo, như Chúa Nguyễn Hoàng, Tổ Nguyên Thiều, Tổ Liễu Quán..v..v…. thuộc hệ phái Thiền Tịnh song tu, các vị đó đã từng lấy máu chép kinh, lấy xương làm bút viết lên những trang sử oai hùng trên con đường mở nước và phát huy chính pháp, nhất là Thiền Tịnh song tu đã vun bồi cho dòng máu Lạc Hồng, chuyển hóa sức sống Rồng Tiên, tô thắm nền văn hóa Việt Tộc sáng ngời muôn thuở.

Ngày nay, sau biến cố 75, con dân nước Việt ào ạt vượt biên ra nước ngoài đi tìm đất sống và đã định cư khắp năm châu bốn biển. Trên con đường tìm đất tự do, họ cũng mang theo nền văn hóa Việt Tộc đã được hun đúc chất liệu Thiền Tịnh song tu để làm sản phẩm tinh thần cho giống nòi phát triển.

Trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại đã có sẵn tài nguyên văn hóa Việt Tộc và cũng đã có sẵn chất liệu Thiền Tịnh song tu, chúng ta chỉ có nhiệm vụ nối tiếp tiền nhân, kết hợp chuyển hóa, khai thông sinh lộ, vun xới tài nguyên, tưới lên chất liệu Thiền Tịnh song tu, đắp xây vững bền nền văn hóa Việt Tộc để chuyên chở giống nòi Lạc Việt trưởng thành và tồn tại muôn đời trên mảnh đất tự do quê hương mới lập. Ưu tiên cho cộng đồng Việt Nam hải ngoại, những ai làm tròn nghĩa vụ vừa trình bày trên thì mới xứng đáng lưu danh kim cổ người con Phật chân chính, bậc tuấn kiệt hùng anh của con Lạc cháu Hồng.

Thích Thắng Hoan

Những Nét Đặc Sắc Của Văn Hóa Việt Nam

Với một quá trình lịch sử đấu tranh chống kẻ thù xâm lược để bảo vệ bờ cõi, giành tự do, độc lập và xây dựng đất nước có từ hàng ngàn năm của người Việt cùng sự hội tụ của 54 thành phần dân tộc khác nhau đã góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú và đặc sắc cho nền văn hóa của Việt Nam.

1. Phong tục tập quán

Việt Nam là một quốc gia có 54 thành phần dân tộc khác nhau, mỗi một dân tộc đều mang một những nét văn hóa, bản sắc rất riêng và ấn tượng. Chính sự khác biệt về thành phần dân tộc này đã góp phần tạo nên nét đẹp rất đa dạng, phong phú và đặc sắc cho nền văn hóa của Việt Nam mà không một quốc gia nào có thể thay thế được.Phong tục ở Việt Nam có truyền thống lâu đời trải qua hàng nghìn năm nay, nó đã trở thành luật tục, sâu đậm và gắn chặt trong lòng của mỗi người dân Việt Nam.

Theo sự thăng trầm của lịch sử dân tộc, phong tục tập quán của người Việt cũng không ngừng được đổi mới theo trào lưu của xã hội. Một trong những phong tục lâu đời và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong lịch sử là tục ăn trầu. Đây là một phong tục có từ thời Hùng Vương và có nguồn gốc từ truyện sự tích Trầu Cau và tục lệ này đã trở thành biểu cho tình anh em, vợ chồng của người Việt. Không chỉ có tục lệ ăn trầu, Việt Nam còn có một tục khác ra đời từ xa xưa đó chính là phong tục đón năm mới hay còn gọi là Tết.

2. Trang phục

Trang phục là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự khác biệt cho văn hóa của Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới. Những bộ trang phục không chỉ ghi đậm dấu ấn truyền thống văn hóa và phong tục của dân tộc Việt Nam mà nó còn là hơi thở, linh hồn của một dân tộc.

Trang phục của Việt Nam rất đa dạng, phong phú nhưng gây ấn tượng nhất đối với mọi người nhất có thể kể đến là áo dài và áo tứ thân. Bộ trang phục mang dáng dấp và linh hồn nước Việt và khi nhắc đến mọi người sẽ nghĩ ngay đến Việt Nam đó chính bộ áo dài truyền thống. Áo dài truyền thống gồm áo dài xẻ thành 2 tà trước và sau, quần dài chấm gót, chất liệu là lụa hoặc vải trơn, màu sắc và họa tiết đa dạng.

Áo dài không chỉ tôn lên vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm của phụ nữ Việt mà nó còn thể hiện sự kín đáo, e lê và sức cuốn hút lạ lùng. Áo dài ngày nay càng trở nên đa dạng về hình dáng cũng như màu sắc, họa tiết nhưng nó vẫn luôn giữ được vẹn nguyên hình dáng vẻ truyền thống sẵn có.

3. Ẩm thực

Ẩm thực chính là một trong những yếu tố tạo nên sự khác biệt và đặc trưng của từng quốc gia trên thế giới. Nếu như khi nhắc đến sushi mọi người sẽ ngay lập tức nghĩ ngay đến Nhật Bản, món kimchi gắn liền với Hàn Quốc, Thái Lan với món ăn nổi tiếng như tomyum, xôi xoài thì khi nhắc đến Việt Nam thì chắc chắn du khách sẽ không thể nào bỏ qua được món phở, bánh mì, bánh xèo.

Đó là những món ăn đã tạo nên thương hiệu cho ẩm thực Việt Nam và được CNN ghi tên trong danh sách TOP 8 nền ẩm thực mới nổi có sức lan tỏa nhất thế giới. Đặc trưng của ẩm thực Việt Nam là sự dung hòa trong cách pha trộn nguyên liệu, không quá cay, quá ngọt hay quá mặn. Các nguyên liệu gia vị để chế biến món ăn rất phong phú , bao gồm nhiều loại rau thơm, gia vị thực vật, quả hoặc lá non, các gia vị lên men và các gia vị đặc trưng của các dân tộc Đông Nam Á.

Việt Nam là một trong những quốc gia có nền văn hóa đặc sắc và mang những nét độc đáo rất riêng mà không một quốc gia nào trên thế giới có được. Sự khác biệt tạo nên sự ấn tượng cho nền văn hóa của Việt Nam có thể nhắc đến như trang phục, phục tập quán, ẩm thực. Hy vọng những thông tin hữu ích trên sẽ giúp bạn hiểu biết hơn về văn hóa Việt Nam.

Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Văn Hóa Việt Nam (Phần 3)

PGS, TS Lê Văn Toan *

Việt Nam – Đông Nam Á là một vùng thiên nhiên phong phú, thống nhất nhưng đa dạng, cho nên văn hóa bản địa của vùng này cũng phong phú, đa dạng trong sự thống nhất. Với trào lưu lịch sử, những nền văn hóa vùng này lại tiếp thu các nhân tố ngoại sinh từ Ấn Độ, Trung Hoa, phương Tây nên lại càng đa dạng và càng có vẻ phủ mờ cái gốc – cái văn hóa bản thể, văn hóa nội sinh trong vùng.

Do điều kiện tự nhiên và điều kiện lịch sử hình thành quốc gia dân tộc và điều kiện kinh tế – xã hội, văn hóa Việt Nam sớm có xu thế giao lưu, hội nhập, tiếp biến, nhờ thế Việt Nam có nền văn hóa đa ngôn ngữ, giàu bản sắc, nền văn minh Đại Việt được xếp là một trong 34 nền văn minh đầu tiên của nhân loại. Nhiều học giả thống nhất rằng, bản sắc văn hóa Việt Nam được tạo ra ở vùng lúa nước sông Hồng cách đây hơn 4000 năm, được tôi luyện và khẳng định trong 2000 năm chống và đối thoại với Trung Quốc đã đủ tầm cở để tiếp biến văn hóa thành công. Thêm vào đó là trong suốt chiều dài lịch sử hơn 4000 năm tiếp biến văn hóa Việt Nam với phương Tây dưới nhiều hình thức, vừa có cưỡng bức vừa có đối thoại văn hóa, có thời điểm vừa chống lại, vừa tiếp thu, khi tích cực, khi tiêu cực, có lúc cả hai, rất biện chứng, khó biện luận, tách biệt, nhưng quan trọng nhất là vừa giữ được bản sắc dân tộc, vừa hiện đại hóa.

Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền văn hóa Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng. Trong những đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cũng như đường lối xây dựng và phát triển đất nước từ ngày đổi mới đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho lĩnh vực văn hóa, coi phát triển văn hóa, con người Việt Nam là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của cách mạng, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Nói đến đặc trưng cơ bản của Văn hóa Việt Nam, trước hết phải khẳng định rằng, Văn hóa Việt Nam có những nét mang tính đặc trưng phổ biển của văn hóa nói chung, và đương nhiên là có những đặc trưng riêng biệt, đặc thù. Những đặc trưng cơ bản riêng biệt này được hình thành, đúc kết, bảo lưu, phát triển từ điều kiện địa lý tự nhiên, điều kiện lịch sử, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội riêng có của Việt Nam. Cho đến nay, nhiều học giả nghiên cứu chuyên ngành Việt Nam học, Văn hóa học, Văn hóa Việt Nam đã có nhiều ý kiến đa chiều về đặc trưng văn hóa Việt Nam, tạo nên bức tranh phong phú, nhiều màu sắc, đôi khi là tương phản. Thế nhưng, tổng hợp lại, có những nét chung tương đối khái quát gồm 5 đặc trưng văn hóa Việt Nam, thể hiện rõ ở 24 phẩm chất tốt cơ bản sau:

Văn hóa, đặc trưng của văn hóa không phải là phạm trù bất biến, nó luôn vận động, phát triển cùng với sự biến đổi của điều kiện tự nhiên và sự phát triển của xã hội loài người. Trong bối cảnh hội nhập khu vực và toàn cầu hóa, sự thay đổi về bối cảnh xã hội bên trong và bên ngoài, sự xung đột về hệ giá trị giữa văn hóa nông nghiệp – nông thôn truyền thống với văn hóa công nghiệp – đô thị hiện đại, cùng với nó là năng lực tổ chức, quản lý xã hội không ngừng đổi mới, tin chắc rằng, 5 đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam sẽ được bảo tồn và dịch chuyển theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Những năm gần đây, nhiều nhà khoa học đã và đang tập trung nghiên cứu, đề xuất nhiều hướng đi, nhiều giải pháp phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Một số đề tài đã được công bố, trong đó nổi bật là đề tài cấp Nhà nước KX.04-15/11-15 “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” thuộc chương trình KH&CN trọng điểm KX-04/11-15 “Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2011-2015” do GS,TSKH Trần Ngọc Thêm làm chủ nhiệm. Trong đề tài này, khi bàn về đặc trưng văn hóa Việt Nam, tác giả đề xuất chuyển đổi đặc trưng văn hóa Việt Nam đến năm 2030 theo hướng sau:

C.Mác. “Phê phán kinh tế chính trị học”, T3 (1857-1859), Nxb Nhân dân. 1963.

Trần Quốc Vượng. Văn hóa Việt Nam – Tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn hóa dân tộc. Tạp chí văn hóa nghệ thuật. Hà Nội, 2000, tr.56-77.

Đảng CSVN. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Khóa VIII. NXB CTQG. Hà Nội, 1998.

Đảng CSVN. Nghị quyết Hội nghị Trưng ương 9 Khóa IX. http://baodientuchinhphu.vn

Phan Ngọc. Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới. NXB Văn hóa thông tin. Hà Nội, 1994.

Trần Ngọc Thêm. Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại. NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 2015.

Dương Phú Hiệp. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn hóa và con người Việt Nam. NXB CTQG, Hà Nội, 2012.

Trần Văn Giàu. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. NXB CTQG. Hà Nội, 2011.

Suy Nghĩ Đôi Điều Về Văn Hóa Việt Nam

Trần Quốc Vượng Văn hóa Việt Nam – tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn học, 2003

06:11′ CH – Thứ năm, 23/06/2016

Văn hóa Việt Nam khác văn hóa Trung Quốc, từ trong cội nguồn của nó, tuy cả hai nền văn hóa cổ truyền này đều thuộc phạm trù văn minh nông nghiệp.

Trên bình diện ý thức, nhận ra sự khác nhau này là từ các vua đời Trần. Minh Tông nói:

“Nước ta đã có phép tắc nhất định: vả lại Nam Bắc phong tục khác nhau“(1).

Nghệ Tông cũng nói:

” Triều đình dựng nước, tự có phép độ riêng, không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam Bắc đều làm chủ nước mình, không cần phải bắt chước nhau(2).

Đến Nguyễn Trãi, nhận thức đó được thể hiện rạch ròi, trong Bình Ngô đại cáo:

” Như nước Đại Việt taThật là một nước văn hiến!

Cõi bờ sông núi đã riêng.Phong tục Bắc Nam cũng khác

Trải Triệu Đinh Lý Trần đời đời dựng nước.Cùng Hán Đường Tống Nguyên làm đế một phương.

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhauSong hào kiệt bao giờ cũng có“(3)

Nhận thức ấy, sở dĩ được nói ra, là để chống với một khuynh hướng tư tưởng nảy sinh từ đời Trần và phát triển mạnh từ thời Lê, muốn cải biến văn hóa Việt Nam theo văn hóa Trung Quốc. Đó là khuynh hướng tư tưởng của Nho gia. Đại đa số các nhà Nho Việt Nam dù là các bậc đại Nho như Phạm Sư Mạnh đời Trần thịnh hay Lê Quý Đôn đời Lê suy, khi suy tư về văn hóa, tư tưởng… vẫn lấy văn hóa, văn minh Trung Quốc làm hệ thống qui chiếu. Đây là cái mặc cảm tự ti dân tộc, cái phong thái ” Nam nhân Bắc hướng“(4). Dù là những người yêu nước, yêu nước kiểu nhà Nho, khi muốn chứng minh rằng nước ta là nước “văn hiến” thì họ cũng chỉ biết nói rằng “Hồ Việt đồng phong các đệ huynh” (Nguyễn Trung Ngạn), rằng văn hiến Việt Nam “bất dị Trung Quốc” “vô tốn Trung Quốc” (Lê Quý Đôn) (không khác không thua kém Trung Quốc). Như Hồ Quý Ly, người đã biết chê bai nhiều nhà Nho, từ Khổng Tử đến Trình Chu, có nhiều cái nhìn độc đáo về học thuật, văn hóa nhưng khi trả lời người Bắc hỏi về phong tục nước ta cũng chỉ đành nói:

” Dục vấn An Nam sựAn Nam phong tục thuần.Y quan đường chế độLễ nhạc Hán quân thần“.

” Lễ nhạc như Tiền Hán, y quan giống Thịnh Đường” được coi là tiêu chuẩn của một nước “văn hiến”.

Các nhà Nho yêu nước Việt Nam thường nhận thức được rõ “Thổ hữu chủ” (Lê Văn Thịnh), “Địa phận Nam Bắc (Phạm Sư Mạnh) “Giang sơn hữu hạn phân Nam Bắc” (Nguyễn Trung Ngạn) “Sóc Nam giới hạn tự an bài” (Ngô Thì Nhậm)… Nghĩa là có ý thức rõ về độc lập chính trị và chủ quyền lãnh thổ, nhưng lại khác mơ hồ trong ý thức độc lập về văn hóa. Mà văn hóa tức là lối sống, là tâm hồn dân tộc. Độc lập về văn hóa mới độc lập sâu sắc, vững chắc…

Dễ hiểu, khi một nhà trí thức “thấm nhuần” văn hóa Trung Quốc thì thậm chí “quên” cả thiên nhiên Việt Nam. Những câu thơ tả cảnh thu chẳng hạn, từ đời Lê về sau này đều chịu ảnh hưởng của Trung Hoa. Mùa thu trong “truyện Hoa tiên” của Nguyễn Huy Tự chẳng hạn, giống như mùa thu của Đỗ Phủ.

” Lác đác rừng phòng hạt móc saNgàn lau hiu hắt khi thu mờLưng trời sóng gợn lòng sông thẳmMặt đất mây đùm cửa ải xa”!

(Phan Huy Vịnh dịch)

Đến như Nguyễn Du mà cũng thế:

“Rừng phong khi lá rủ vàng”

Phải tới Nguyễn Khuyến mới tái tạo một mùa thu thuần túy Việt Nam (xem: Thu vịnh, Thu điếu..)

Tâm thức Việt Nam thời Lý Trần, chừng nào đó, đã có sự suy tư hồi cố (pensée rétra spective) về thời trước Bắc thuộc (Sử ký Đỗ Thiện. Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái…)

“Lô Thủy phiên ly, Thao tụ lạcVăn Lang nhật nguyệt, Thục sơn hà”

(Sông Lô phên giậu, Thao dân họpVăn Lang ngày tháng, Thục non sông).

(Hành quân, Phạm Sư Mạnh).

Song nói chung, nhận thức về một nền văn minh Việt Nam đặc sắc, khác cách mạng Trung Hoa, tồn tạo hàng ngàn năm trước thời Bắc thuộc của giới trí thức phong kiến Việt Nam (sư tăng, đạo sĩ, nho sĩ…) còn mơ hồ lắm. Bảo là về cơ bản họ không biết gì thì e quá, song cũng không hoàn toàn là nói ngoa…

Giới trí thức mác-xít Việt Nam bắt đầu đem lại một nhận thức ngày càng rõ ràng và đầy đủ về một nền văn hóa, văn minh Việt Nam buổi đầu dựng nước và giữ nước, trước thời Bắc thuộc. Đó là cái gốc của văn hóa Việt Nam. Đó là văn minh Đông Sơn hay có người muốn gọi, là văn minh sông Hồng (để đối sánh với văn minh Hoàng Hà, văn minh sông Nin, văn minh Lưỡng Hà v.v… Quả thật, những nền văn minh đầu tiên của thế giới, có thể gọi là “văn minh của những dòng sông lớn”, về thực chất, là văn minh nông nghiệp (civilisationagncole). Qua thời đại chống Bắc thuộc và qua kỷ nguyên Đại Việt, cái gốc đó không hề bị trốc rễ, tuy, sự thực “cây văn hóa Việt Nam” bị chặt trụi khá nhiều cành, bị (và được) lắp ghép nhiều cành nhánh mới…(5)

Nghĩa là, tuy có sự giao tiếp và hỗn dung văn hóa Việt Hoa, thì khuynh hướng giao tiếp và hỗn dung vẫn là Việt Hóa chứ không phải là Hoa hoá; và văn hóa Việt Nam không bao giờ là một bản sao chép của văn hóa Trung Hoa.

Khi tình trạng nhị nguyên văn hóa diễn ra mạnh mẽ (chủ yếu là từ thời Lê Thánh Tông trở về sau, chứ ở thời đại Lý Trần thì văn hóa cung đình vẫn gần gũi với văn hóa làng xóm) thì tất cả những đặc điểm độc đáo và ưu tú của văn hóa Việt Nam vẫn kết tinh ở văn hóa làng xóm, tức là nền văn hóa dân gian. Do nhiều nguyên nhân và điều kiện lịch sử, cái nói lên bản sắc và văn hóa dân tộc Việt Nam là văn hóa dân gian Việt Nam.

Văn hóa dân gian không ra đời một sớm một chiều. Cái gốc của nó là nền văn hóa dân tộc trước thời Bắc thuộc. Và theo tôi, không nên chỉ ngược lên đến thời đại Đông Sơn (đồng thau muộn – sắt sớm) mà phải ngược lên đến tận thời đại ĐÁ MỚI (Hòa Bình – Bắc Sơn), thời đại nẩy sinh NÔNG NGHIỆP và LÀNG XÓM, khi tim hiểu cội nguồn đặc điểm văn hóa Việt Nam.

Có lẽ chưa chắc ai trong chúng ta cũng tán thành cái quan điểm của Claude-Lévi-Strauss khi ông cho rằng ” Con người chỉ thực sự sáng tạo những công trình vĩ đại vào buổi đầu. Trong bất cứ lĩnh vực nào, chỉ có bước đầu hoàn toàn có giá trị, những giai đoạn kế tiếp chỉ là sự lặp lại những giai đoạn đã qua“(6)

Những điều ông nói sau đây, theo tôi, là đúng:

” Một trong những giai đoạn nhiều sáng tạo nhất của lịch sử nhân loại xảy ra vào thời đại đá mới với sự phát minh ra trồng trọt, chăn nuôi… Muốn đạt đến những thành quả vĩ đại này, không phải trong chốc lát là được, mà trái lại, những tập thể loài người bé nhỏ lúc bấy giờ đã phải trải qua hàng mấy nghìn năm quan sát, thí nghiệm và truyền đạt kinh nghiệm từ đời này sang đời khác. Sự nghiệp vĩ đại này đã diễn ra một cách tốt đẹp, liên tục và thành công…“(7)

Bất cứ nhà khảo cổ học, dân tộc học và sử học nào cũng biết rằng nếp sống thời đá mới, trên cơ bản, vẫn được duy trì trong nếp sống nông thôn của nhân loại, thậm chí cho mãi đến thế kỷ XVIII, XIX(8).

Nói đến nông nghiệp, làng xóm… là phải nói đến THIÊN NHIÊN, TỰ NHIÊN, mà thực ra, nói rộng hơn, đã nói đến VĂN HÓA là phải nói đến TỰ NHIÊN, vì xét cho cùng, cái VĂN HÓA chỉ là cái TỰ NHIÊN, được thích ứng và biến đổi bởi con người, để thỏa mãn những NHU CẦU về mọi mặt của con người.(9)

Có người đã và sẽ bảo tôi là không mác-xít, là nghiêng theo “quyết đinh luận địa lý” khi xem xét những đặc điểm của văn hóa Việt Nam trong sự đối sánh với văn hóa Trung Quốc:

Việt Nam (lưu vực sông Hồng)

Trung Quốc ban đầu (lưu vực sông Hoàng Hà)

– Khí hậu nhiệt đới, gió mùa ẩm ướt

– Khí hậu đại lục, mùa đông băng giá, lượng mưa chỉ tập trung vào cuối mùa hè, độ bốc hơi cao.

– Đất phù sa nâu, do sông bồi

Hoàng thổ, do gió cuốn

.- Nông nghiệp tưới nước (nước mưa, nước tát, từ hệ thống tưới nước)

– Đất phát sinh nông nghiệp là vùng hoàng thổ nửa khô hạn. Nông nghiệp trồng khô

– Cây lương thực: cây có củ, mía, rau, dưa bầu bí, và đặc biệt cây lúa.

– Cây lương thực: túc tức tiểu mễ (kê), cao lương, sau nữa là mạch cho đến trước đời Tần vẫn chưa chiếm địa vị chủ đạo

– Ăn cơm, xôi: đôi đũa

– Ăn bánh, cháo

Trong văn hóa Viễn Đông là xuất phát từ đất Việt trồng lúa nước

– Ở nhà sàn: nhà mái cong của văn hóa Viễn Đông là một thành tựu văn hóa gốc Việt…

– Ở nhà hầm và nửa hầm

– Đi lại: chủ yếu dùng đường nước: thuyền mảng. Trên bộ dùng voi. Thủy binh, bộ và tượng binh

– Đi lại trên bộ: ngựa, xe, bộ và kỵ binh. Lấy xe, ngựa làm độ số sức mạnh quyền lực (bánh xa quốc, thiên xa quốc…) (xem: Luận ngữ, Xuân Thu)

– Nỏ, rìu chiến

– Cung 2 cánh, qua.

– Đắp đê

– Giếng, nước ngầm– Khơi sâu và khơi nhiều dòng chảy

– Cồng, trống

– Chuông, khánh…

– Khèn

– Tiêu

– Gắn nghề nông với nghề cá

– Cạnh đồng bằng là thảo nguyên, cạnh khu trồng trọt là khu chăn nuôi lớn. Đan xen văn hóa nông nghiệp và văn hóa du mục. Hướng đại lục

– Chữ viết, đô thị ra đời muộn. Văn hóa xóm làng. Vai trò phụ nữ cao, gia đình hạt nhân (nhà) ra đời sớm. Làng ra đời sớm. Nhà – Họ – Hàng – Làng – Nước là một thể thống nhất hữu cơ. Nền dân chủ làng mạc (dân chủ dân cày)

– Chữ viết, đô thị ra đời sớm. Văn hóa đế vương, chế độ phụ hệ nghiêm khắc. Khuynh hướng chính trị – xã hội tập quyền, chuyên chế, phục tùng tư tưởng, đặc trị, quân sự.

Cội nguồn của những đặc điểm văn hóa dân tộc cố nhiên phải tìm trong những điều kiện lịch sử cả dân tộc. Nhưng trước đó, và trong suốt quá trình lịch sử, cũng như phải thấy những điều kiện địa lý từ đó ảnh hưởng đến phương thức canh tác, đến hình thái kinh tế… và áp lực của chúng lên hình thái xã hội – chính trị. Văn hóa, trước hết, là một sự trả lời, một sự ứng phó của một cộng đồng cư dân, trước những thách thức của những điều kiện địa lý – khí hậu (géoclimatique), và sau đó là sự trả lời, ứng phó, trước những thách thức của những điều kiện xã hội – lịch sử. Tôi muốn nhắc lại ở đây một ý kiến của K. Mác bàn về mối quan hệ giữa người với thiên nhiên:

” Con người trong sự sản xuất chỉ có thể tiến hành giống như thiên nhiên, tức là nó chỉ có thể biến đổi cái hình thái của các thể chất. Hơn nữa ngay trong sự lao động biến đổi hình thái như thế, con người luôn luôn vẫn được sự giúp đỡ của những lực lượng tự nhiên, như thế thì lao động không phải là nguồn gốc duy nhất của những giá trị sử dụng mà nó sản xuất, không phải là nguồn gốc duy nhất của những của cải vật chất. Lao động là bố và đất đai là mẹ của những của cải này, như William Petty đã nói“(10)

Theo quan điểm duy vật lịch sử mà tôi hiểu, thì nền tảng địa lý và môi trường thiên nhiên không nằm bên ngoài xã hội như ông Mao hiểu (xem Mâu thuẫn luận trong: “Mao Trạch Đông Tuyển tập”, tập I, Nxb Sự thật, 1960. Tr. 434-435) mà nằm ngay trong cơ sở kinh tế của xã hội.

K.Mác nói: ” Cái toàn thể những liên hệ giữa những người sản xuất với thiên nhiên và giữa họ với nhau, cái toàn thể những sự liên hệ như thế, trong ấy người ta sản xuất, thì chính là xã hội, xét về cái cơ cấu kinh tế của nó“(11)

P. En-ghen cũng nói: ” Bàn về những quan hệ kinh tế mà chúng tôi gọi là cơ sở quyết định của lao động xã hội, thì chúng tôi hiểu đấy là cái cách thức và phương thức theo đó người ta sản xuất những điều kiện sinh sống của mình và trao đổi sản phẩm với nhau. Tức là trong ấy có bao hàm toàn bộ kỹ thuật sản xuất và vận tải… trong khái niệm quan hệ kinh tế cũng có bao hàm cái nền tảng địa lý… và lẽ cố nhiên là cả cái môi trường bên ngoài bao bọc cái hình thái xã hội như thế“(12)

Hiểu như vậy, thì cơ sở kinh tế, nguyên nhân căn bản của sự phát triển của xã hội gồm ba phần: Quan hệ sản xuất, địa lý và môi trường thiên nhiên và kỹ thuật sản xuất.

Vậy thì khi bàn đến những đặc điểm của văn hóa Việt Nam, phải tìm cội nguồn của nó từ thời đại đá mới, thời đại phát sinh nông nghiệp và làng xóm, phải chú ý đến những điều kiện nền tảng địa lý và môi trường thiên nhiên đã sản sinh ra những đặc điểm văn hóa ấy trước khi xét đến những điều kiện lịch sử của dân tộc đã duy trì và củng cố những đặc điểm văn hóa ấy. Đừng tách rời văn hóa với thiên nhiên.

Như vậy, đứng về mặt thiên nhiên, nhân chủng, văn hóa… Việt Nam thoạt kỳ thủy là một với khu vực Đông Nam Á chứ không phải là một với Trung Hoa. Cái không gian địa lý thiên nhiên Đông Nam Á cần phải hiểu rộng hơn cái không gian chính trị Đông Nam Á hiện nay: Nó bao gồm cả lưu vực Trường Giang trở xuống phía Nam, khu vực phía Nam dải Tần Lĩnh và bao gồm cả khu vực Átxam hiện tại. Đó là cái không gian địa lý, cái môi trường thiên nhiên ở đó nảy sinh và phát triển văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Về mặt nhân chủng, cho tới khoảng giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên (-500), về cơ bản, đó là vùng phi Hoa – phi Ấn, vùng Việt theo nghĩa rộng (Việt là một tộc danh phiếm xưng, chỉ toàn bộ các cư dân phi Hoa phi Ấn, thuộc các ngữ hệ Môn-Khơme, Tày – Thái, Mèo – Dao, Tạng – Miến, Anh-đô-nê- diêng (Mã Lai, Đa Đảo), Việt – Mường. Cho tới trước khi Trung Quốc bành trướng xuống vùng lưu vực Trường Giang, thì Việt Nam và Trung Quốc là khác nhau trên căn bản: Việt Nam là vùng châu Á gió mùa. Trung Quốc là vùng châu Á đại lục; Việt Nam là vùng nông nghiệp nước (hệ thống ngập nước) (systèmesinnondés), rồi hệ thống tưới nước (systèmes irrgués). Trung Hoa là vùng nông nghiệp khô (culture sèche); Việt Nam là vùng lúa nước, Trung Hoa là vùng kê, cao lương, rồi mạch. Từ giữa thiên niên kỷ I trước Công nguyên, bành trướng Trung Quốc tràn xuống lưu vực Trường Giang và xa mãi về phía Nam; vùng “Bách Việt” co lại dần, tưởng “mất hết” nhưng cuối cùng vẫn còn một Việt Nam, đại biểu duy nhất còn sót lại của phức hợp Bách Việt ngày xưa, tồn tại vừa với tính chất Dân tộc – Nhà nước (Nation-Etat) vừa với tính chất Dân tộc – Nhân dân (Nation – Peuple). Từ đó xuất hiện trên thực tiễn những sự giống nhau, những cái “bất dị” giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Vậy cái khác nhau (dị, thù, theo ngôn từ Nguyễn Trãi) là có trước, cái giống nhau là có sau. Và phải nói ngay là cái giống nhau là văn hóa, vốn về bản chất, là phồn tạp, là đa dạng. Đông Nam Á là một vùng thiên nhiên phong phú, thống nhất nhưng đa dạng. Cho nên văn hóa bản địa của vùng này cũng vậy tuy có nhiều hằng số thống nhất nhưng cũng cực kỳ đa dạng. Với trào lưu lịch sử, những nền văn hóa vùng này lại tiếp thu, với những phương thế và liều lượng khác nhau, các nhân tố ngoại sinh (éléments exogènes) khác nhau, từ Ấn Độ, Trung Hoa, phương Tây… (chỉ kể về mặt tôn giáo, là đạo Phật, đạo Bà La môn, đạo Nho, đạo Lão, đạo Hồi, đạo Thiên chúa…) nên lại càng đa dạng và càng có vẻ che lấp cái gốc, những nhân tố văn hóa nội sinh (éléments endogènes) của chính vùng này.

Hãy nói đến cái giống nhau giữa một Việt Nam và một Trung Quốc cổ truyền (từ giữa thế kỷ XIV trở về trước).

Cái giống nhau đã từng được giới học giả trong ngoài nước, một thời quá nhấn mạnh khiến thế giới tưởng đâu Việt Nam là một “vùng phía trước” (Avant Monde) của văn minh Trung Hoa ở khu vực Đông Nam Á. Chỉ nhấn mạnh đến cái giống nhau và về cái giống nhau, người ta chỉ nói đến và cắt nghĩa là do Việt Nam học, vay mượn, tiếp thu của Trung Quốc: một cái khung chính trị, hành chính (armature pol itico adminisitrative): một nhà nước Hoa hóa (Etat sinisé) với hoàng đế và một bộ máy quan liêu các cấp, một ý thức hệ: Nho giáo với “kẻ sĩ” v.v… Cái giống nhau ở kiến trúc thượng tầng ở trên bề mặt – mà cũng không hoàn toàn như nhau: vua Việt khác hoàng đế Trung Hoa, chức danh quan lại có thể giống nhau mà chức năng và sự vận hành của bộ máy cũng có khác(13). Thời Tống, Trung Quốc theo Tống – Nho (néo – Cofucianisme); thời Lý Trần, ngang thời Tống, Đại Việt sùng Phật nhưng không bài Nho, Lão. Luật Hồng Đức soạn ngay dưới thời ông vua sùng Nho, thích mô phỏng Trung Quốc và Lê Thánh Tông, mà do áp lực của lịch sử – vẫn phải tôn trọng những nhân tố nội sinh trong nền văn hóa, phong tục dân gian…

Người ta thường “quên” một sự kiện là từ Tần Hán trở về sau, khi Trung Quốc đã thôn tính xong lưu vực Trường Giang rồi Châu Giang… thì nền văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước ở phương Nam được chồng lên (surimpostion) nền văn hóa nông nghiệp trồng khô ở Hoa Bắc và hội nhập (intégrer) vào văn minh Trung Quốc. Trung Quốc đã “chữ nghĩa hoá” (nhờ ưu thế văn tự) nhiều thành tựu văn hóa của phương nam và nhận làm của mình. Văn hóa phương Bắc là văn hóa chữ nghĩa, văn hóa phương nam là văn hóa truyền miệng. Qua sách vở Trung Quốc về sau người Việt học lại nhiều điều vốn là kinh nghiệm, ký ức của tổ tiên mình nhưng đã qua sự sửa đổi “khái niệm hoá” của học giả Trung Quốc. Sơ nguyên tượng (archétipe) của “Bàn Cổ” vốn là huyền thoại “Bàn Hồ” của tổ tiên người Dao. “Thần Nông” (theo ngữ pháp Trung văn thì phải là “Nông thần”) vốn là “anh hùng văn hóa” (héros culturel) của người Việt). Truyện Ngưu Lang – Chức Nữ gắn với hiện tượng ‘mưa ngâu” ở phương Nam cũng là một tích Việt được ghi lại bằng Hán văn. Lịch Tầu (âm lịch như đang dùng hiện nay) chỉ mới lưu hành từ thời Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) và chỉ đúng với khí hậu Hoa Bắc. Các lễ hội 5-5 âm lịch (lễ hội ngày Hạ chí), 15-7 âm lịch, trung thu 15-8 âm lịch vốn đều không xuất phát từ Hoa Bắc mà đều có gốc tích ở miền Sở, Việt… tức vùng trồng lúa nước phương Nam… Còn có thể kể ra nhiều lắm. Nhiều cái giống nhau giữa Việt Nam và Trung Quốc là do Trung Quốc đã tích hợp văn hóa lúa nước vào cấu trúc văn hóa Trung Hoa.

Song dù có bao nhiêu sự giống nhau thì cũng không xóa mờ được những sự khác nhau, đặc biệt, ở dưới bề sâu, trong dân gian. Làng Việt là một cấu trúc xã hội thuần Việt còn bảo lưu đậm nét tính chất công xã hơn nhiều những tổ chức “lân” “li” “hương”… của Trung Quốc.

Nó dựa trên một cơ sở kinh tế tiểu nông là phổ biến, trong khi ở Trung Quốc, bên cạnh kinh tế tiểu nông có hẳn một cơ cấu kinh tế trang viên của một giai cấp đại địa chủ.

Ở Việt Nam, cho đến thế kỷ XVI, chỉ có một “kẻ chợ”, một đô thị là Thăng Long – Đông Đô (Hà Nội), còn tất cả là “kẻ quê”, với một hệ thống “chợ quê” và những luồng buôn bán nhỏ chứ hầu như không có những luồng thương mại lớn.

Trong khí đó, từ Xuân Thu chiến quốc qua Đường Tống; Minh Thanh… Ở Trung Quốc đã xuất hiện rất nhiều đô thị vương công với những luồng thương mại lớn (đường lụa, đường trà…) và một tầng lớp đại thương nhân. Kẻ sĩ Trung Quốc nằm ở các đô thị vương công này và phục vụ vương công: xuất hiện các “chư tử” với rất nhiều học thuyết chính trị xã hội – triết học v.v… – Trí thức Việt – phần lớn nằm ở làng quê, là các sư sãi, thầy đồ, thầy lang, thầy cúng, thầy bói… gắn với nông dân và không xuất hiện nhiều “tử” lớn. Ít sách vở, ít lý luận khái quát.

Cơ cấu kinh tế: tiểu nông.

Cơ cấu xã hội: làng xóm

Tính chất xã hội: cộng đồng công xã

Cơ cấu tâm lý dân tộc: tâm lý tiểu nông, hạn hẹp, chủ tình (sentimentalisme), ưa dung hòa (compromis), làm ăn nhỏ, biện pháp nửa vời (demimesure)…

Có đại địa chủ, đại thương nhân, có nhiều đô thị lớn, có chữ viết sớm, sách vở nhiều, Trung Quốc có cả một nền văn minh đế chế, một nền văn hóa đế vương, (culture impériale) tách biệt hẳn và đè nén mạnh dân cày nơi nông trang, với một tâm lý làm lớn, làm lố (chinoiserie démesure) duy ý chí (volontarisme).

… Văn hóa Việt Nam cổ truyền, về bản chất, là một nền văn hóa xóm làng (culturevillageoise). Là sức mạnh (grandeur) vừa là điểm yếu (faiblesse) của Truyền thống Việt Nam cũng là ở đó.

Tài liệu tham khảo

(1) Xem: Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ quyển VII. Sự việc chép vào năm 1357.

(2) Như trên, sự việc chép vào năm 1370.

(3) Nước Đại Việt là một nước văn minh có lãnh thổ riêng, có văn hóa (với cốt lõi là phong tục) riêng, có chủ quyền độc lập đầy đủ, diễn tiến, biến chuyển trong lịch sử, có khi thăng, khi trầm, lúc mạnh, lúc yếu nhưng thời nào cũng có một hằng số bất biến, là NHÂN DÂN, mà đại biểu là những anh hùng hào kiệt.

Tuy chưa trình bày bằng những khái niệm (concepts) hiện đại, nhưng, 600 năm trước đây, Nguyễn Trãi đã công thức hóa đầy đủ, cùng một lúc, cả Dân tộc – Nhà nước (Niton Etal) và Dân tộc – Nhân dân (Nation-Peuple). Năm trăm năm sau Nguyên Trãi, tư tưởng phương Tây mới có một định nghĩa đủ đầy tương tự về Dân tộc (Nation, bao gồm Nation – Etat và Nàtion – Peule). Định nghĩa về dân tộc nổi tiếng của Sta-lin, nhấn mạnh về kinh tế chung, thị trường thống nhất, tuy đã nói đến lãnh thổ chung nhưng chưa nhấn mạnh đến quyền sở hữu cộng đồng về địa bàn đất đai, chủ quyền độc lập thống nhất bao trùm lên lãnh thổ đó, tuy đã nói đến cộng đồng tâm lý biểu hiện trong một nền văn hóa chung nhưng lại thiếu nhắc tới một cộng đồng về ký ức (communauté de mémoire) biểu hiện trong một cộng đồng tư duy thần thoại và nhất là trong một lịch sử chung, một quá khứ chung, một truyền thống lịch sử, từ đó mà xuất hiện một cộng đồng tộc danh (communauté de nom) và một cộng đồng giá trị (communauté de valeurs). Dân tộc vừa có tính giai cấp (giai cấp thống trị), vừa có tính cộng đồng (nhân dân), vừa biến chuyển (theo các chế độ xã hội, các giai cấp thống trị) vừa trường tồn (cái bản chất nhân dân).

(4) Thời Hùng, buổi sơ nguyên của dân tộc, người Việt chỉ có một hệ qui chiếu: quy chiếu vào chính mình. (Tương tự như thời Socrate với châm ngôn: “Hãy tự biết anh” (Connais toi-même). Do đó, quốc hiệu và sự “xưng danh” chỉ là: nước Việt, là Lạc là Âu hay sau đó là Âu Lạc.

Trong và sau thời Bắc thuộc, bắt đầu hình thành thế đối sánh Bắc Nam. Người Việt, đầy tự hào, không bao giờ chịu coi cái Nhà nước đã từng thống trị mình và luôn luôn lăm le bành trướng thôn tính mình là Trung Quốc (nước ở giữa) như bọn thống trị nhà nước đó tự gọi, mà chỉ gọi là Bắc quốc, Bắc Nhân, Bắc đế…

Đó là những khái niệm của ta, khái niệm Việt Nam, lấy ta làm chuẩn mực đối sách. Nhưng cũng do một yếu tất lịch sử, trong thời Bắc thuộc, trong tâm thức người Việt đã hình thành hai hệ quy chiếu:

– Hệ qui chiếu dân tộc, Việt. – Hệ qui chiếu Trung Hoa, Tàu.

Vì thế mà tự ý thức từ thời Lý Bí (Lý Nam Đế) giữa thế kỷ VII, đã xuất hiện khái niệm Nam (lấy Trung Hoa làm chuẩn mực đối sách): Nam quốc, Nam nhân, Nam đế… đó cũng là những khái niệm của ta, khái niệm Việt Nam, nhưng lấy cái khác ta (Bắc) làm chuẩn mực đối sách, từ đó, người Việt tự định nghĩa bằng cách đối lập với cái khác ta (Tàu, Bắc).

Sau khi giành lại được độc lập dân tộc, trong quốc hiệu chính thức (Đại Cồ Việt, Đại Việt) không có yếu tố “Nam”, nhưng trong thơ văn thì đã có. Đến thế kỷ XIX (thời Gia Long, Minh Mạng) mới xuất hiện yếu tố “Nam” trong quốc hiệu chính thức (Việt Nam, Đại Nam). Trong quốc hiệu thời Lý Trần Lê, không có khái niệm “Nam” đi liền khái niệm “Việt” nhưng lại thêm yếu tố “Đại”. Đó là một mặc cảm dân tộc (dưới hình thức mặc cảm tự tôn) và sở dĩ có thêm yếu tố “Đại” này, cũng là do đã xuất hiện thế đối sánh Trung Hoa – Việt Nam với tinh thần “vô tốn” (không thua kém)

(5) Lịch sử Viêt Nam, từ trước sau Công nguyên đến đầu thế kỷ X, về mặt chính trị, là thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc. Về mặt văn hóa, có nhiều quá trình giao thoa:

a. Giải thể văn hóa (déculturation): nhiều yếu tố văn hóa Việt cổ bị mất mát. Văn minh Đông Sơn bị giải thể cấu trúc (déstructurée), những yếu tố của nó hòa trong nền văn hóa dân gian.

b Hỗn dung văn hóa (acculturation). Trên nền tảng văn hóa Việt cổ, tiếp thụ (vừa cưỡng chế vừa ôn hoà) những yếu tố văn hóa ngoại sinh (elénonts exogènes) từ Trung Hoa, Ấn Độ… Có hỗn dung, mà cũng có giao lưu văn hóa (contacts culturels), nhiều yếu tố văn hóa Việt được truyền vào Trung Quốc.

c Chống hỗn dung văn hóa (contre-acculturation). Làng Việt là những “pháo đài xanh” cưỡng chống âm mưu đồng hóa của bọn phong kiến Hán – Đường. Những quá trình đó đan xen, xoắn xuýt vào nhau, tạo nên một thời kỳ chuyển biến lâu dài, từ văn minh Đông Sơn đến văn minh Thăng Long.

Vấn đề này cần một chuyên luận văn hóa học riêng.

(6) Claude-Lévi – Strauss. Tristes tropiques (Nhiệt đới buồn), Paris Plon, 1955, tr.269.

(7) Như trên, 264-265

(8) Khi bàn đến nền tảng kinh tế và văn hóa cổ truyền Việt-Nam, chúng ta thường nhấn mạnh – một cách đúng đắn – đến nghề nông trồng lúa nước (riziculture) với những hệ của kỹ thuật, xã hội… của nó (một cái “ngưỡng kỹ thuật” (seui technique), một cái “ngưỡng dân số” (seuil démographique) quan hệ đất ruộng – số dân), sự xuất hiện sớm của “gia đình hạt nhân” (famille nuléaire) (bố mẹ và con cái chưa trưởng thành), của kinh tế tiểu nông, của cấu trúc làng xóm… Nghề nông trồng lúa nước xuất hiện ở Đông Nam Á từ 6,7 nghìn năm nay, có trước và làm nền tảng cho sự ra đời của văn minh Đông Sơn. Nhưng không nên quên rằng, trước hoặc đồng thời và song song với nghề nông trồng lúa nước còn có nghề nông trồng khoai củ, mía, cây ăn quả. Khoai củ, mía (mật), mâm ngũ quả… là những lễ vật không thể thiếu được trong nhiều nghi lễ tế thần làng, thần nông nghiệp và trong việc cúng giỗ tổ tiên – một tín ngưỡng dân tộc – dân gian đặc sắc của Việt Nam. Cây mía được dùng làm “gậy chống ông vải trong ngày Tết Việt là một ví dụ điển hình. Mía, khoai, có thể có nguồn gốc hải đảo, từ hải đảo Thái Bình Dương truyền vào miền ven biển, ven sông với các cư dân nguyên – Mã Lai (Proto – Mailais), có thể là những cây trồng chủ yếu của chủ nhân các nền văn hóa hậu kỳ và hậu đá mới Hạ Long, Hoa Lộc, Quỳnh Văn, Thạch Lạc, Bàu Tró… kết hợp với nền văn hóa chài cá ven sông, ven biển. Những thành tựu văn hóa đá mới ấy còn được bảo lưu và nối tiếp đến ngày nay.

(9) Sự đối lập (một chiều) giữa văn hóa (culture) và tự nhiên (nature) là một tư tưởng thuần túy Tây phương. Tư tưởng phương Tây cổ truyền, từ triết học Hi-La, qua Thiên chúa giáo đến duy lý luận Descartes như tiến sĩ Fécbớt tổng kết, là “khuynh hướng khuyến khích một thái độ thù nghịch từ năm bản đối với thiên nhiên… Thiên nhiên phải được chinh phục, vì nó là thù nghịch” (V.C.Ferkiss Technological man (Con người kỹ thuật).

Văn hóa là của con người. Con người là một sinh vật xã hội, vừa là sản phầm của tự nhiên, vừa đứng đối diện với tự nhiên và có tham vọng làm chủ thiên nhiên. Văn hóa, do đó, cũng có một tính cách lưỡng diện (dualiste) lưỡng trị (ambivalen te): vừa thích ứng, hòa điệu, vừa biến đổi thiên nhiên. Khoa sinh thái học (Ecologie) và khoa văn hóa học (Cultuologie) mới bác bỏ khái niệm có tính chất thù hận “chinh phục thiên nhiên” và kêu gọi loài người thế kỷ XX tôn trọng những thế quân bình của thiên nhiên, sự hòa điệu (harnonie) của thiên nhiên. “Con người là một phần của thiên nhiên hơn là một cái gì cách biệt với thiên nhiên”: “Con người và thiên nhiên là một, xã hội và ngoại cảnh là một”: “vấn đề của con người không phải là chiến thắng thiên nhiên mà là sống trong một sự hòa hợp có ý thức và tế nhị hơn với thiên nhiên” (xem lại F. En-ghen, Phép biện chứng của tự nhiên).

(10) K.Mác. Tư bản, quyển I. Dietz Veslag, tr 47-48. Nói theo cách nói của phương Đông, thì trong vũ trụ có 3 thế lực cùng tham dự vào quá trình làm ra những của cải vật chất: trời (khí hậu, thời tiết…), đất (thổ nhưỡng, tài nguyên trong lòng đất), người (lao động, kỹ thuật với cả trí, cả lý, cả tình và cả chí…) “Tam tài giả, thiên địa nhân”. Con người đứng ở trung tâm của quá trình sản xuất, nhưng con’người phải “tham thiên, thuận địa”, “Trông trời trông đất trông mây, trông mưa trông gió trông ngày trông đêm” thì mới có khả năng sản xuất ra nhiều của cải vật chất.

(11) K Mác. Tư bản -quyển III, Dietz Veslag tr.872.

(12) P.En-ghen. Thư ngày 35-01-1893. Trong: “Mác – En-ghen toàn tập” Moskau, 1971, tr 723-724.

(13) Xem: Trần Quốc Vượng – Ngô Thế Long – Đối chiếu tổ chức hành chính và bộ máy quan liêu Việt Nam và Trung Quốc thời phong kiến (sẽ in).