Top 9 # Xem Nhiều Nhất Công Dụng Của Cây Kỷ Tử Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Comforttinhdauthom.com

Kỷ Tử Và Công Dụng Chữa Bệnh Của Kỷ Tử

Tên Hán Việt khác: Cẩu kế tử (Nhĩ Nhã), Cẩu cúc tử (Bản Thảo Diễn Nghĩa), Khổ kỷ tử (Thi Sơ), Điềm thái tử (Bản Thảo Đồ Kinh), Thiên tinh tử (Bảo Phát), Địa cốt tử, Địa tiết tử (Bản Kinh), Địa tiên tử (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Khước lão tử, Dương nhủ tử, Tiên nhân trượng tử, Tây vương mẫu trượng tử, Cẩu kỵ tử, (Biệt Lục), Xích bảo, Linh bàng tử, Nhị thi lục, Tam thi lục, Thạch nạp cương, Thanh tinh tử, Minh nhãn thảo tử, Tuyết áp san hô (Hòa Hán Dược Khảo).

Tên khoa học: Fructus Lycii.

Họ khoa học: Thuộc họ Cà (Solanaceae).

Là cây bụi mọc đứng, phân cành nhiều, cao 0,5-1,5m. Cành mảnh, thỉnh thoảng có gai ngắn mọc ở kẽ lá. Lá nguyên nhẵn, mọc cách, một số mọc vòng, cuống lá ngắn, phiến lá hình müi mác, hẹp đầu ở gốc. Hoa nhỏ mọc đơn độc ở kẽ lá hoặc có một số hoa mọc chụm lại. Đài nhẵn, hình chuông, có 3-4 thùy hình trái xoan nhọn, xẻ đến tận giữa ống. Tràng màu tím đỏ, hình phễu, chia 5 thùy hình trái xoan tù, có lông ở mép. Nhị 5, chỉ nhị hình chỉ đính ở đỉnh của ống tràng, dài hơn tràng. Bầu có 2 ô, vòi nhụy nhẵn dài bằng nhụy, đầu nhụy chẻ đôi. Quả mọng hình trứng, khi chín màu đỏ sầm, hoặc vàng đỏ. Hạt nhiều hình thân dẹp. Ra hoa từ tháng 6-9, có quả từ tháng 7-10.

Địa lý: Có nhiều ở Trung Quốc nước ta còn phải nhập, có ở các tỉnh biên giới Việt Nam như Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam.

Phần dùng làm thuốc: Dùng quả khô rụng (Fructus Lycii).

Mô tả dược liệu: Quả khô Câu kỷ tử hình bầu dục dài khoảng 0,5-1cm, đường kính khoảng hơn 0,2cm. Vỏ quả màu tím đỏ hoặc đỏ tươi, mặt ngoài nhăn teo bên trong có nhiều hạt hình tạng thận màu vàng, có một đầu có vết của cuống quả, không mùi, vị ngọt hơi chua, sau khi nếm nước bọt có màu vàng hồng. Loại sản xuất ở Cam túc có quả tròn dài, hạt ít, vị ngọt là loại tốt nhất nên gọi là Cam kỷ tử hay Cam câu kỷ (Dược Tài Học).

Thu hái, sơ chế: Hái quả hàng năm vào tháng 8-9, phơi khô. Khi quả chín đỏ hái vào sáng sớm hoặc chiều mát, trải mỏng, phơi trong râm mát cho đến khi bắt đầu nhăn mới phơi chỗ nắng nhiều cho đến khi thật khô.

+ Thường dùng sống, có khi tẩm rượu sấy khô, hoặc tẩm mật rồi sắc lấy nước đặc, sấy nhẹ cho khô, đem tán bột mịn. Bảo quản: Đựng vào lọ kín để nơi khô ráo, nếu bị thâm đen đem xông diêm sinh hoặc phun rượu, xóc lên sẽ trở lại màu đỏ đẹp

+ Thành phần chủ yếu có Betain, nhiều loại axit amin, polysaccharid, vltamin B1, B2, C, acid nicotinic, Ca, P, Fe.. . (Trung Dược Học). +Trong Kỷ tử có chừng 0,09% chất Betain (C5H11O2N) (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Trong 100g quả có 3,96mg Caroten, 150mg Canxi, 6,7mg P, 3,4mg sắt, 3mg Vit C, 1, 7mg axit nicotic, 0,23mg Amon sunfat (Từ Quốc Quân và Triệu Thủ Huấn) + Trong Khởi tử có Lysin, Cholin, Betain, 2,2% chất béo và 4,6% chất Protein, Acid cyanhydric và có thể có Atropin (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).

+ Carotene, Thiameme, Riboflavin, Vitamin C, b-Sitosterol, Linoleic acid (Chinese Herbal Medicine).

+ Betain (Nishiyama R, C A 1965, 63 (4): 4660).

+ Valine, Glutamine, Asparagine (Nishiyama R, C A 1963, 59 (11): 13113b).

+ Trong 100g Câu kỷ tử có Carotene 3,39mg, Thiamine 0,23g, Riboflavine 0,33mg, Nicotinic acid 1,7mg, Vitamin C 3mg (Từ Quốc Quân, Dược Tài Học, Bắc Kinh 1960: 513).

1. Thuốc có tác dụng tăng cường miễn dịch không đặc hiệu. Trên súc vật thực nghiệm có tác dụng tàng cường khả năng thực bào của hệ lưới nội mô, kết quả nghiên cứu gần đây cho biết Kỷ tử có tác dụng nâng cao khả năng thực bào của tế bào đại thực bào, tăng hoạt lực của enzym dung khuẩn của huyết thanh, tăng số lượng và hiệu giá kháng thể, chứng tỏ Kỷ tử có tác dụng tăng cường tính miễn dịch của cơ thể, thành phần có tác dụng là Polysaccharide Kỷ tử (Trung Dược Học).

2. Thuốc có tác dụng tăng cường chức năng tạo máu của chuột nhắt (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Chất Betain là chất kích thích sinh vật, cho vào thức ăn cho gà ăn có tác dụng tăng trọng và đẻ trứng nhiều hơn, cüng làm cho chuột nhắt tăng trọng rõ (Trung Dược Học).

+ Thuốc có tác dụng hạ Cholesterol của chuột cống, chất Betain của thuốc có tác dụng bảo vệ gan chống thoái hóa mỡ, hạ đường huyết (Trung Dược Học).

+ Chất chiết xuất nước của thuốc có tác dụng hạ huyết áp ức chế tim, hưng phấn ruột (tác dụng như Cholin). Chất Betain không có tác dụng này (Trung Dược Học). 6. Nước sắc Kỷ tử có tác dụng hưng phấn tử cung cô lập của thỏ (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Thuốc có tác dụng ức chế ung thư đối với chuột nhắt S180. Các học giả Nhật Bản có báo cáo năm 1979 là lá và quả Kỷ tử có tác dụng ức chế tế bào ung thư trong ống nghiệm (Trung Dược Học).

+ Các tác giả Trung Quốc trên thực nghiệm cüng phát hiện thuốc (lá, quả và cuống quả của Kỷ tử (vùng Ninh Hạ) có tác dụng ức chế ở mức độ khác nhau hai loại tế bào ung thư ở người (Trung Dược Học).

+ Tính hơi hàn, không độc (Danh Y Biệt Lục).

+ Vị ngọt, tính bình (Dược Tính Bản Thảo).

+ Vị hàn, không độc (Thực Liệu Bản Thảo).

+ Vị ngọt, tính bình (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Vị ngọt, tính bình (Trung Dược Học).

+ Vào kinh túc Thiếu âm Thận, túc Quyết âm Can (Bản Thảo Hối Ngôn).

+ Vào kinh túc thiếu âm Thận, thủ Thiếu âm tâm (Bản Thảo Kinh Giải).

+ Vào kinh Can, Thận, Phế (Trung Dược Học).

+ Vào kinh Can, Thận (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Bổ ích tinh huyết, cường thịnh âm đạo (Bản Thảo Kinh Tập Chú).

+ Bổ ích tinh bất túc, minh mục, an thần (Dược Tính Bản Thảo).

+ Trừ phong, bổ ích gân cốt, khử hư lao (Thực Liệu Bản Thảo).

+Tư thận, nhuận phế (Bản Thảo Cương Mục).

+ Chuyên bổ thận, nhuận phế, sinh tân, ích khí, là thuốc chủ yếu bổ can thận chân âm bất túc, là thuốc tốt để ích tinh, minh mụ c… (Bản Thảo Kinh Sơ)

+ Kỷ tử có tác dụng tư bổ can thận, sinh tinh huyết, minh mục, nhuận phế (Trung Dược Học).

+ Tư dưỡng Can Thận (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

luyện mật làm viên uống hằng ngày (Tứ Thần Hoàn – Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm Phương).

+ Trị gan viêm mạn tính, gan xơ do âm hư: Bắc sa sâm 12g, Mạch môn 12g, Đưung qui 12g, Kỷ tử 12-24g, Sinh địa 24-40g, Xuyên luyện tử 6g, sắc nước uống (Nhất Quán Tiễn – Liễu Châu Y Thoại)

+ Trị suy nhược, thận hư, lưng đau, gối mỏi, di tinh, huyết trắng nhiều: Thục địa 320g, Sơn dược (sao) 160g, Câu kỷ tử 160g, Sơn thù nhục 160g, Ngưu tất 120g, Thỏ ty tử 160g, Lộc giao (sao) 160g, Quy bản (sao) 160g, tán bột, trộn mật làm hoàn. Mỗi lần uống 12-16g, ngày 2-3 lần (Tả Quy Hoàn – Cảnh Nhạc Toàn Thư).

+ Trị hoa mắt, thị lực giảm sút, cườm mắt tuổi gìa, thủy tinh thể dục: Thục địa 320g, Sơn thù 1690, Sơn dược 160g, Đơn bì 80g, Trạch tả 80g, Phục linh 80g, Cúc hoa 120g, Câu kỷ tử 120g. Tán bột, trộn với mật làm hoàn, ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10-12g (Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn – Y Cấp) .

+ Câu kỷ tử, Thục địa, Ngü vị tử, Mạch môn đông, Địa cốt bì, Thanh hoa, Miết giáp, Ngưu tất trị âm hư lao nhiệt nóng bức rứt âm ỉ trong xương, hoặc muốn dùng làm thuốc chính để trị phát sốt, lạnh thì thêm Thiên môn đông, Bách bộ, Tz bà diệp, có thể trị được cả chứng ho do âm hư, phế nhiệt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Câu kỷ tử, hái những quả chín đỏ hằng ngày, tẩm giấm, rượu,rồi lấy giấy sáp phong niêm kín lại đừng làm cho bay hơi đủ hai tháng đổ vào chậu khuấy nhừ nát lọc lấy nước rồi ngâm với rượu. Sau đó cho vào nồi bạc nấu lửa liu riu nhỏ, đồng thời quấy luôn để khỏi dính và đều cho tới khi thành cao như Mạch nha, cuối cùng bỏ vào bình sạch đậy kỹ, mỗi buổi sáng uống mỗi lần 2 muỗng canh lớn, trước khi đi ngủ, liên tục trong 100 ngày mới thấy mạnh khỏe (Kim Tủy Tiễn – Kinh Nghiệm Phương).

+ Câu kỷ tử 2 thăng, vào ngày Nhâm qu{ tháng 10 giờ Dần, đứng quay về hướng đông mà hái rồi lấy rượu tốt 2 thăng ngâm trong bình sứ 21 ngày xong cho vào 3 thăng nước cốt Sinh địa trộn đều, niêm lại cho thật kín, Đến ngày 30 trước tiết Lập xuân mở bình, uống một chén hâm nóng lúc bụng đói, đến sau tiết lập xuân râu tóc bạc thì cüng biến thành đen. Cấm ăn hành, tỏi, su hào (Câu Kỷ Tử – Kinh nghiệm phương).

+ Trị hoa mắt, thị lực giảm sút, cườm mắt tuổi gìa, thủy tinh thể dục: Cúc hoa 8g, Kỷ tử 20g, Nhục thung dung 12g, Ba kích thiên 8g, sắc nước uống (Cúc Thanh Thang – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Trị nam giới sinh dục suy yếu (vô sinh): Mỗi tối nhai 15g Câu kỷ tử, liên tục 1 tháng, thường sau khi tinh dịch trở lại bình thường, uống thêm 1 tháng. Trong thời gian uống thuốc, kiêng phòng dục. Đã trị 42 ca, sau 1 liệu trình: hồi phục bình thường 23 ca, sau 2 tháng bình thường 10 ca, có 6 ca không có kết quả vì không có tinh trùng, 3 ca không kết quả, theo dõi sau 2 năm, tinh dịch trở lại bình thường, 3 ca đã có con (Đông Đức Vệ và cộng sự, ‘Kỷ Tử Trị Vô Sinh Nam Giới’, Tân Trung Tạp Chí 1987, 2: 92)

+ Trị dạ dầy viêm teo mạn tính: Dùng Kỷ tử rửa sạch, sao khô, giă nát, đóng gói. Mỗi ngày uống 20g, chia làm 2 lần lúc bụng đói và nhai uống, 2 tháng là một liệu trình. Trong thời gian uống thuốc, ngưng tất cả các loại thuốc khác. Đã trị 20 ca, theo dõi 2- 4 tháng, có kết quả tốt 15 ca, có kết quả 5 ca (Trần Thiệu Dung và cộng sự, ‘Báo Cáo 20 Ca Dạ Dầy Viêm Teo Mạn Tính Điều Trị Bằng Câu Kỷ Tử,’ Trung Y Tạp Chí 1987, 2: 92).

+ Trị thận hư, tinh thiếu, lưng đau, vùng thắt lưng đau mỏi: Câu kỷ tử, Hoàng tinh, 2 vị bằng nhau, tán bột, luyện mật làm viên, mỗi lần 12g, ngày uống 2 lần với nước nóng (Câu Kỷ Hoàn – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách)..

+ Trị Can hư sinh ra bệnh ở mắt, ra gió chảy nước mắt: Câu kỷ tử, dùng rượu ngâm sau 3-7 ngày, mỗi lần uống 1-2 muỗng canh, ngày 2 lần (Câu Kỷ Tửu – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Câu kỷ tử có tác dụng bổ tinh khí, bổ suy nhược làm cho người xinh tươi hồng hào, sáng rõ tai mắt, yên thần định chí sống lâu (Bản Thảo Dược Tính).

+ Câu kỷ tử làm cứng mạnh gân xương, sống dai lâu gìa, trừ phòng phong bệnh bổ hư lao, ích tinh khí (Thực Liệu Bản Thảo).

+ Câu kỷ tử chữa được những bệnh ở tim, ọe khan đau tim, đau họng khát nước vì thận có bệnh cho nên hay làm nên chứng tiêu khát (Thang Dịch Bản Thảo).

+ Câu kỷ tử có tính giúp cho thận, nhuận được phế, dùng nó ép lấy dầu thắp sáng đèn làm sáng mắt (Bản Thảo Cương Mục).

+ Câu kỷ tử có vị cay vừa, khí ấm vừa và mát, tính có thể lên xuống được, vị nặng nên hay bổ âm nhưng tính của nó là âm trong có dương nên cổ được khí. Xét cho đúng thì nó chỉ x t cho dương một phần nào thôi, chứ không có tính cách kích động nên những người biết dùng thì dùng để tiếp thêm sức cho Thục địa là đúng. Còn vấn đề công dụng của nó thì có thể làm cho thông minh tai mắt, yên ổn tâm thần tăng thêm tinh tủy, cứng mạnh gân xương, bù đắp vào những chỗ bất túc nhất là lao thương quá độ. Vì vậy khi mà thận khí đã đầy đủ thì chứng tiêu khát không còn nữa, còn những người bị chân âm suy tổn mà đau ở sau lưng dưới rốn, mê man dùng nó thì công hiệu (Cảnh Nhạc Toàn Thư).

+ Câu kỷ tử có vị ngọt tính bình là vị thuốc chính của Thận, vì vậy mà bổ Thận ích tinh, khi Thận thủy đã mạnh thì gân xương rắn chắc vững vàng nên chứng tiêu khát lui cả, còn những chứng mắt mờ, tai điếc, lưng đau, chân yếu cüng theo đó mà biến mất (Bản Thảo Thông Nguyên).

+ Đi xa ngàn dặm thì không nên dùng Câu kỷ tử vì nó bổ thận quá cho nên kích thích đến tình dục, nó có khí bình không nóng, nó có tác dụng bổ thận chế hỏa, công hiệu như Thục địa nhưng chỉ tiếc khí nóng bứt rứt trong xương muốn trừ nó mà chưa từng dùng được (Danh Y Biệt Lục).

+ Câu kỷ tử vị ngọt mát tính nhuận, các sách ghi rằng có tác dụng khu phong, minh mục, mạnh gân xương, bổ tinh, tráng dương. X t đúng ra thì Thận thủy suy thiếu uống vào có tính cam nhuận thì âm phải theo dương mà sinh trưởng. Khi Thận thủy đã đầy đủ thì tự nhiên phong sẽ bị tán ngay, vì thế nó có tác dụng làm sáng được tai mắt, cứng xương, mạnh gân. Đó lại càng chứng minh rằng Câu kỷ tử là một vị thuốc tư thủy, do đó mà các sách đều cho rằng nó có tác dụng chữa được tiêu khát. Ngày nay thấy nó sắc đỏ mà tưởng lầm là thuốc bổ dương thì quá sai lầm. Tại sao không biết rằng những thứ đã gọi là khí hàn thì có bao giờ mà bổ dương được? Nếu cứ cho sắc đỏ đó là bổ dương thì Hồng hoa, Tử thảo thì sắc nó cüng đỏ mà có ai quả quyết là thuốc bổ dương đâu, có kẻ lại cho rằng tính nó hoạt huyết. Than ôi! đạo làm thầy thuốc mà không rành, chỉ hạn hẹp trong mấy cuốn sách, nghĩ quẩn quanh, cái gì còn hồ nghi phải gắng sức nghiên cứu cho tới đầu tới đuôi. Nói chung quy chỉ vì xem sách không tinh, định câu không rõ nghĩa không thể nhận xét mà lý hội cho đến cùng, chỉ biết một đoạn nào đó thì biết làm sao được! Chẳng hạn những bệnh thuộc hư hàn mà dám dùng nó thì chuyện xảy ra chẳng những không thể bổ được phần dương mà hư lại càng hư thêm rồi sinh ra những chứng tiêu chảy không cầm được, có khi tới chết. Đó chính là sai một ly đi một dặm nó biến chuyển nhanh như thế, sao lại cho rằng dùng thuốc không cần cẩn thận lắm cüng được vậy mà? (Bản Thảo Cầu Chân).

+ Câu tử có vị ngọt đắng tính lạnh, nhập vào kinh Can và Thận, có tác dụng bổ âm tráng thủy, tưới nhuần được cho Can, thanh trừ được phong độc. Nhờ được tính đắng mát cho nên Tz dễ tiết, với những dạng người có bệnh Tz thổ khô táo, táo bón mới nên dùng nó; Với nhưng người có thủy hàn khô thấp, trường vị hoạt tiết, tiêu lỏng, tiêu sệt luôn thì không nên dùng nó vì có thể sinh ra tiêu chảy. Nếu ai gọi nó là thuốc trợ dương khí là sai hoàn toàn (Trường Sa Dược Giải).

+ Dùng với Thục địa là rất hay, thuốc làm sáng mắt, thính tai, ích tinh, cố tủy, kiện cốt, cường cân, chuyên bổ lao thương, chỉ tiêu khát, chân âm hư mà bụng rốn đau không khỏi, dùng nhiều rất hay (Cảnh Nhạc Toàn Thư’).

+ Câu kỷ tử chuyên bổ huyết, không thuốc nào hơn (Trùng Khánh Đường Tùy Bút).

+ Câu kỷ tử cảm khí xuân hàn của trời, lại được cả khí xung hòa của đất để sinh ra, vị nó ngọt, tính bình cho nên là vị thuốc chính có công năng chuyên bổ cho chân âm của Can và Thận. Họ Đào nói: Xa nhà ngàn dặm chớ ăn Câu kỷ tử, ý nói sức cường dương của nó đó thôi (Dược Phẩm Vậng Yếu).

+ Chu Nhụ Tử trông thấy bên chỗ khe suối có hai bụi rậm hoa xanh tươi trông rất đẹp, bỗng thấy một chó lớn đuổi một con chó nhỏ phóng vào bụi hoa gần ngay gốc cây Kỷ tử. Họ trông thấy vậy nhưng không biết nó biến đi đâu, liền cùng nhau đào ở gốc cây Kỷ tử thì thấy ở gốc có hai cái rễ lớn nhỏ như hai con chó nằm gọn ở đó, họ bèn đem về nấu ăn, tự nhiên thấy khỏe, khoan khoái trong người. Ông nói đó là cây Kỷ tử của tiên trồng có hơn cả ngàn năm nên mới hóa hình con chó (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). + Tục truyền ngày xưa cây này mùa xuân gọi là Thiên tinh tử, mùa hè gọi là Câu kỷ diệp, mùa thu gọi là Khước lão, mùa đông gọi là Địa cốt bì (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Câu kỷ tử còn cho lá và ngọn gọi là Câu kỷ hành diệp, có vị đắng, tính lạnh, không độc, thường nấu với thịt dê ăn bổ, có tác dụng trừ phong, sáng mắt. Có thể thay trà để uống, công dụng chỉ khát, hết bứt rứt, nóng nảy, bổ sinh dục, giải độc của miến. Nó rất ghét sữa tô. Lấy nước cốt của nó nhỏ vào mắt có tác dụng trừ mộng thịt ở mắt, màng đỏ ở mắt, choáng váng, hoa mắt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Cây còn cho mầm gọi là Câu kỷ miêu có vị đắng tính lạnh, có tác dụng trừ phiền, ích chí, khu phong, minh mục, tiêu nhiệt độc, tán sang thủy (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Dùng hạt Câu kỷ tử loại ở Cam châu nấu chín, gĩa nát, trộn với men gạo hoặc lấy hạt Câu kỷ cùng với Sinh địa hoàng chế thành rượu uống gọi là rượu Câu kỷ (Câu Kỷ Tửu). Dùng hạt Câu kỷ trộn gạo nấu cháo có tác dụng bổ tinh huyết, ích thận khí, thiếu huyết, thận suy dùng rất tốt gọi là Câu kỷ tử chúc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Loại Câu kỷ ở Cam châu, Trung Quốc có màu đỏ thịt dẻo, ít hột là thứ tốt nhất (Trung Dược Đại Từ Điển).

+ Câu kỷ, hột của nó gọi là Câu kỷ tử, rễ gọi là Địa cốt bì. Rễ có vị đắng hơn, tính hàn hơn, còn hột thì ngọt nhiều, đắng ít. Công dụng của hai thứ này có khác nhau. Câu kỷ tử là thuốc tư bổ Thận âm, Địa cốt bì là thuốc trị chứng nóng âm ỉ trong xương (Đông Dược Học Thiết Yếu).

(1) Ở Việt Nam không có loại Lycium chinensis Miller, mà có cây Câu kỷ (Lycium ruthanicum Murray) cùng họ trên đó là cây cỏ, cành có gai. Lá nguyên mọc so le. Hoa tím nhạt mọc ở kẽ lá. Quả hình trứng thuôn, khi chín màu đỏ, có nhiều hạt. Cây được trồng nhiều nơi làm rau ăn và làm thuốc. Trồng bằng cành hoặc hạt vào mùa xuân, chỉ dùng lá nấu canh và chữa ho. Có khi quả chín đỏ được dùng thay thế Khởi tử, Vỏ rễ làm Địa cốt bì, không đúng với cây trên, cần phải nghiên cứu lại.

(2) Vị này cho vỏ rễ của cây (Cortex lycii Chinensis) gọi là Địa cốt bì (Danh Từ Dược Học Đông Y).

Thông tin này chỉ dành cho nhân viên y tế tham khảo, người bệnh không được tự ý áp dụng phương pháp này để chữa bệnh.

Trích: Bách Khoa Y Học 2010

Biên soạn ebook : Lê Đình Sáng

ĐẠI HỌC Y KHOA HÀ NỘI

Công Dụng Và Cách Dùng Dược Liệu: Cây Kỷ Tử (Khởi Tử)

Trước đây kỷ tử chỉ là một vị thuốc nhập, gần đây ta đã bắt đầu trồng để lấy quả làm thuốc.

Trồng bằng hạt hay dâm cành. Gieo hạt vào mùa hạ, tưới nước giữ độ ẩm, sau 7-8 ngày hạt mọc. Khoảng cách cây từ 0,6m đến 1m. Có thể cắt cành thành từng mẩu nhỏ 20-25cm. Sau 3 năm có thể thu hoạch. Thời kỳ thu hoạch kéo dài 20-30 năm nhưng thu hoạch cao nhất vào năm thứ 10.

Quả hái trong 2 mùa hạ và thu vì thời kỳ quả chính kéo dài. Theo kinh nghiệm trồng của Trung Quốc 1 hecta kỷ tử tốt và sai quả cho 1.500kg quả. Cây 3 năm cho khoảng 500-800 kg/ha.

Hái quả cần hái vào sáng sớm hoặc chiều mát, nếu vào giữa trưa nóng quá có thể bị kém chất. Khi mới hái về phải tải mỏng phơi râm mát cho tới khi da bắt đầu nhăn mới phơi chỗ nắng đến thật khô. Nếu sấy phải giữ ở nhiệt độ thấp 30- 45°C.

Cho đến nay, kỷ tử vẫn phần lớn nhập của Trung Quốc. Tại Trung Quốc người ta trồng ở nhiều tỉnh, tại những tỉnh biên giới Việt Nam như Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam đều có. Ngoài ra cây còn mọc và được trồng ở Nhật Bản, Triều Tiên.

Chế biến: Quả thường dùng sống hoặc tẩm rượu sao, đem sắc ngay hoặc sấy nhẹ (dưới 50oC) đến khô giòn, tán bột hoặc phun rượu cho quả trở nên đỏ tươi, khi dùng giã nát.

Theo Từ Quốc Vân và Triệu Thủ Huấn trong 100g quả có 3,96mg caroten; 150mg canxi; 6,7mg P; 3,4 mg sắt; 3mg Vitamin C; 1,7mg axit nicotinic; 0,23mg amon sunfat.

Theo một tác giả khác (Ibraghinmôv) trong khởi tử có lyxin, cholin, betain 2,2% chất béo và 4,6% chất protein, axit xyanhydric và có thể có atropin.

Khởi tử được coi là một vị thuốc bổ toàn thân, dùng trong các bệnh đái đường (phối hợp với các vị thuốc khác), ho lao, viêm phổi, mệt nhọc, gầy yếu, bổ tinh khí, giữ cho người trẻ lâu.

Liều dùng: 6-15g dưới dạng thuốc sắc hoặc rượu thuốc.

Theo tài liệu cổ, khởi tử có vị ngọt, tính bình, vào 3 kinh phế, can và thận. Có tác dụng bổ can thận, nhuận phế táo, mạnh gân cốt. Dùng chữa chân tay yếu mỏi, mắt mờ, di mộng tinh.

Rượu khởi tử: Khởi tử 600g, rượu (35-40°) 2 lít. Giã nhỏ khởi tử. Cho rượu vào ngâm trong 2 tuần lễ trở lên. Lọc lấy rượu mà uống. Ngày uống 1-2. cốc con làm thuốc bổ.

Đơn thuốc bổ chữa di tinh: Khởi tử 6g, sinh khương 2g, nhục thong dong 2g, nước 600ml. Sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày.

Hữu quy hoàn: Thục địa 32g, Sơn dược sao 16g, Sơn thù 12g, Câu kỷ tử 16g, Đỗ trọng (tẩm gừng sao) 16g, Thỏ ty tử 16g, Thục Phụ tử 8 – 14g, Nhục quế 8 – 16g, Đương quy 12g, Lộc giác giao 16g.

Cách dùng: Theo tỷ lệ trên tất cả tán bột mịn luyện mật làm hoàn, mỗi lần uống 4 – 8g, có thể làm thuốc thang sắc uống.

Tác dụng: Ôn thận tráng dương, bổ tinh huyết.

Chủ trị: Các chứng thận dương bất túc, mệnh môn hỏa suy, lão suy. Lâm sàng biểu hiện các triệu chứng: sợ lạnh, chân lạnh, hoạt tinh, liệt dương, chân đau, gối mỏi.

Ngoài quả khởi tử ra, cây khởi tử còn cho các vị thuốc sau đây:

Lá khởi tử (rau củ khởi) nấu canh với thịt để chữa cho ho, sốt.

Vỏ cây khởi tử tức địa cốt bì-Cortex Lycii sinensis là vỏ rễ phơi hay sấy khô.

Đào rễ vào mùa xuân và mùa thu (từ tháng 10 đến tháng 3-4) rửa sạch đất cát, bóc lấy vỏ phơi hay sấy khô. Muốn cho đẹp, làm như sau: Rễ đào về rửa sạch cắt thành từng đoạn 6-10cm, dùng dao rạch cho đến gỗ, cho vào đồ, vỏ sẽ long ra khỏi gỗ, lấy ra bóc phơi hay sấy khô.

Thành phần hóa học: Theo Bộ dược học viện nghiên cứu y học Bắc Kinh 1958, trong địa cốt bì có 0,08% ancalioid, 1,7% saponin không có phản ứng anthraglucosid và tanin. Công dụng và liều dùng: Lá và vỏ rễ khởi tử có tác dụng chữa ho, sốt và sốt do ho.

Liều dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc.

Theo tài liệu cổ, địa cốt bì có vị ngọt, tính hàn, vào 4 kinh phế, can, thận và tam tiêu. Có tác dụng lương huyết tả hỏa, thanh phế nhiệt, trừ cốt chưng. Dùng chữa ho ra máu, phiền nhiệt tiêu khát, lao nhiệt ra mồ hôi, nhức xương. Người doanh phận không có nhiệt, tỳ vị hư hàn không dùng được.

Chữa thổ huyết: Sắc 12g địa cốt bì với 200ml nước mà uống trong ngày.

Tiểu tiện ra huyết: Địa cốt bì tươi, rửa sạch giã lấy nước uống. Mỗi lần 25-30g địa cốt bì tươi. Nếu không có tươi, dùng khô sắc cũng được.

Âm hộ lở loét: Sao nước địa cốt bì mà rửa.

Công Dụng Của Câu Kỷ Tử Là Gì ?

Câu kỷ tử thuộc loại quả mọng có rất nhiều công dụng tốt cho sức khỏe, kỷ tử thường xuyên xuất hiện trong các bài thuốc Đông y. Trong những năm gần đây, câu kỷ tử được ca ngợi là siêu thực phẩm có tác dụng chống lại bệnh đái tháo đường và cả bệnh ung thư. Hôm nay Thảo Dược Thanh Bình xin giới thiệu về công dụng của thảo dược câu kỷ tử, mời các bạn theo dõi ngay bài viết sau đây!

Tên gọi khác của câu kỷ tử là khởi tử, kỷ tử,… trong đó có tên kỷ tử là tên thông dụng nhất. Kỉ tử là loại cây lâu năm, thuộc dạng cây bụi, có nhiều cành.

Thành phần hóa học chủ yếu trong kỷ tử là vitamin và khoáng chất, gồm các chất sắt, kẽm, chất xơ, vitamin C, vitamin A, chất chống oxi hóa, cùng các acidamin thiết yếu khác. Các chuyên gia dinh dưỡng cho rằng trong 120g kỷ tử thì cung cấp 10% lượng protein mà cơ thể cần mỗi ngày.

Câu kỷ tử bổ thận ích tinh có tác dụng cải thiện khả năng tình dục: câu kỷ tử từ xưa đã gắn liền với công dụng giúp cải thiện sinh sản, cải thiện nồng độ testosterone đối với nam giới, tăng số lượng tinh trùng, kéo dài thời gian cương cứng, nhờ những công dụng đó mà câu kỷ tử được sử dụng hầu hết trong các bài thuốc sinh lý nam giới.

âu kỷ tử có tác dụng chống trầm cảm hiệu quả: câu kỷ tử có các vitamin B và C, mangan, chất xơ, các chất này có công dụng giúp làm tăng mức năng lượng tích cực chống các chứng rối loạn lo âu.

Ngoài các công dụng trên thì câu kỷ tử còn có tác dụng hỗ trợ giảm đau, giúp làm đẹp da, giúp tóc nhanh dài, điều chỉnh huyết áp rất tốt.

Quả câu kỷ tử có thể dùng tươi và dùng khô, nhưng đa số là người ta phơi khô để dễ bảo quản. Có thể dùng kỷ tử để nấu ăn, trong y học thì kỷ tử dùng dưới dạng trà, thuốc sắc, ngâm rượu hoặc có thể kết hợp với một số vị thuốc khác.

Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy kỷ tử trong rất nhiều bài thuốc khác nhau. Bài thuốc đơn giản nhất là sử dụng kỷ tử cùng đại táo sắc 2 vị lấy nước uống. Dùng 3 đến 5 quả táo, một muỗng canh quả kỷ tử khô nấu cùng 500ml nước, nấu trong khoảng 25 phút với lửa nhỏ.

➨ Kỷ tử có thể gây tương tác với một số thuốc như thuốc đái tháo đường, cao huyết áp, nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng.

Giá bán câu kỷ tử?Hiện nay giá bán câu kỷ tử của Công Ty chúng tôi là 280k/kg. Hỗ trợ giao hàng trên toàn quốc, nhận hàng, quý khách kiểm tra trước và thanh toán sau, được đổi trả, hoàn tiền nếu sản phẩm câu kỷ tử không đạt chất lượng.

Tại sao nên mua câu kỷ tử ở Thảo Dược Thanh Bình? Về sản phẩm: Câu kỷ tử đã được phơi khô (sấy khô), làm sạch, không có mùi ẩm mốc, được nhập trực tiếp từ người dân, cam kết 100% hàng không có các chất bảo quản, không pha trộn tạp chất. Có nhân viên hỗ trợ khách hàng 24/7, các y sĩ y học cổ truyền có chuyên môn tư vấn hướng dẫn trực tiếp về câu kỷ tử, giải đáp mọi thắc mắc của bạn.

Nếu các bạn ở tại TPHCM muốn mua câu kỷ tử có thể đến địa chỉ 608 Nguyễn Oanh, Phường 6, Quận Gò Vấp.

Chúng tôi có bán câu kỷ tử trực tuyến tại trang web chúng tôi có nấm ngọc cẩu, long nhãn, lá đinh lăng, chỉ thực, quả kha tử cùng nhiều sản phẩm khác tốt cho sức khỏe.

⇒ Cách đặt hàng online rất đơn giản và nhanh chóng:

✚ Truy cập website trang chủ Thảo Dược Thanh Bình chúng tôi

✚ Gõ tìm tên câu kỷ tử cần mua, nhập số lượng.

✚ Công ty chúng tôi sẽ tiến hành kiểm tra câu kỷ tử, đóng gói và giao ngay cho quý khách vào các ngày trong tuần.

✚ Đường dây nóng hỗ trợ tư vấn miễn phí về câu kỷ tử: 0931 665 345 – 0963 665 345.

11 Công Dụng Đáng Quý Của Câu Kỷ Tử

Câu kỷ tử: vị thuốc bổ toàn thân dùng cho cơ thể suy nhược, sinh tinh huyết, chữa hư lao tổn, mạnh gân cốt, thông lợi đại tiểu trường, có tác dụng bổ huyết, thêm khí lực, ức chế tế bào ung thư.

Công dụng của Câu kỷ tử theo tây y :

Tên khoa học của Câu kỷ tử là Lycium chinense Mill. Trái của cây câu kỷ gọi là Câu kỷ tử mầu đỏ cam, trong trái có chứa tinh dầu, acid béo, betain, zeaxanthin, physalien, chứa 8- 10% acid amine trong đó chừng một nửa dạng tự do gồm có acid aspartic, prolin, acid glutamic, alanin, arginin, serin, và 9 acid amine khác.

Những người già trên 60 tuổi hoặc những người bị bệnh ung thư, nếu ăn sống mỗi ngày 5g hạt kỷ tử khô trong 10 ngày liên tiếp thì hoạt độ men superoxide dismitase (SOD) tăng 48%, Hemoglobin (Hb) tăng 12% và Lipid peroxyd giảm 65%, nó làm tăng cường hệ miễn dịch đã bị suy giảm ở người già, điều chỉnh được tỷ lệ chuyển hóa của nguyên bạch cầu (leukocytoblast), globulin miễn dịch trong huyết thanh như IgG, IgA và IgM đều tăng, nước sắc kỷ tử uống liên tục mỗi ngày trong 4 tuần lễ thì cholestérol huyết, beta lipoprotein và triglyceride đều giảm, lượng bạch cầu tăng và ngăn ngưà hiện tượng giảm bạch cầu do cyclophosphamid gây nên trong điều trị ung thư.

Công dụng của Câu kỷ theo đông y:

Câu kỷ tử có vị ngọt tính bình, vào hai kinh can thận, đại bổ phế thận, có công dụng dưỡng gan, làm mát gan, sáng mắt, ích tinh, giải được khí nóng trong người, chứng phổi nóng, ruột nóng, khát nước, chứng phong hàn, đau nhức do phong thấp, nó được coi là vị thuốc bổ toàn thân dùng cho cơ thể suy nhược, sinh tinh huyết, chữa hư lao tổn, mạnh gân cốt, thông lợi đại tiểu trường, có tác dụng bổ huyết, thêm khí lực, ức chế tế bào ung thư. Uống nhiều sẽ khỏe mạnh, thân thể nhẹ nhàng, chống lão hóa, đẹp nhan sắc, tăng tuổi thọ.

1- Cách chế thuốc cao bổ Câu kỷ tử :

Đông y dùng Trái Câu kỷ chín tẩm dấm và rượu cho vào bình thủy tinh đậy kín trong 2 tháng, rồi cho vào chậu men cho thêm rượu quậy nát nhừ, gạn nước cốt, sau đó nấu cạn, quậy cho đều cho đến khi đặc lại thành cao. Đổ cao vào bình sạch để dành. Sáng và tối mỗi lần uống 1-2 thìa với nước nóng hay pha thêm với một ít rượu hâm nóng. Sách đông y nói ai uống được đủ 100 ngày, thân thể nhẹ nhàng, hình dung tươi tỉnh, khí lực dồi dào. Cho nên người xưa đã có câu ” Ly gia thiên lý nhân vật phục”, Nghĩa là ai đi xa ngàn dặm, chớ dùng bởi vì nó bổ mạnh khiến người ta động lòng tình dục.

2- Rượu Câu kỷ tử :

Dùng 1kg Câu kỷ tử khô ngâm với 1 lít rượu sau 21 ngày thì uống được. Chữa các bệnh sau:

Mỗi sáng sớm uống 1 chén nhỏ, uống nguội pha với nước sôi hoặc để nguyên chất hâm nóng. Khi uống gần hết thì ngâm tiếp tục. Uống nhiều râu tóc sẽ đen lại, sức lực dồi dào khỏe mạnh. Chữa được gan hư yếu hay làm chảy nước mắt, Chữa phổi yếu làm ho lâu ngày không khỏi, chữa người nóng lạnh, sốt.

3- Cháo Câu kỷ tử :

Dùng Câu kỷ tử khô 100g nấu chung với cháo trắng ăn để bổ tinh huyết, ích thận khí, chữa bệnh thận suy, huyết thiếu.

4- Chữa mắt đau đỏ, có màng mộng.

Dùng Câu kỷ tử trái tươi, ép vát lấy nước cốt, lọc sạch, nhỏ vào mắt ngày 3 lần, hiệu nghiệm như thần.

5-. Chữa người suy nhược buồn phiền, cổ khô khát.

Dùng Câu kỷ tử và Ngũ vị tử bắng nhau, nghiền nhỏ, pha với nước sôi uống thay trà.

6- Chữa da mặt nám đen, mụn sần sùi.

Dùng Câu kỷ tử 10 cân (pounds), Sinh địa hoàng

3 cân, làm thành bột. hoặc viên to bằng hạt nhãn. MỗI lần uống 10 viên với nước nóng, uống lâu nhan sắc xinh tươi, da mặt trắng trẻo.

7- Tăng cường hệ miễn dịch.

Uống nước sắc Câu kỷ đặc với liều 2,5g/kg/ngày làm tăng khả năng thực bào, hệ thống miễn dịch của ngườiI già suy giảm sẽ được điều chỉnh làm chuyển hóa nguyên bạch cầu leukocytoblast, globulin miễn dịch trong huyết thanh IgG, IgA, IgM đều tăng. Tăng kháng thể hồng cầu của huyết thanh và tăng số lượng tế bào có kháng thể trong lách.

8- Hạ đường huyết.

Những ngườI già trên 60 tuổi uống Câu kỷ tử dạng chiết suất liều 100mg trong 4 tuần thì cholesterol- huyết, beta-lipoprotein và triglyceride đều giảm.

Trong Câu kỷ tử có chứa betain có tác dụng bảo vệ gan chống lại những tổn thương do tetrachlorure carbon gây ra.

10- Chậm lão suy.

NgườI già dùng mỗi ngày 5-10g Câu kỷ tử trong

10 ngày liên tiếp làm tăng hoạt độ của men SOD (Superoxide dimustase) tới 48%, Hb (Hémoglobin) tăng 12% và lipide peroxide giảm 65%.

11- Làm tăng bạch cầu chống bệnh.

Những bệnh nhân ung thư, nếu do chất cyclophosphamide trong điều trị bệnh ung thư làm bạch cầu giảm, dùng Câu kỷ tử mỗi ngày trong 2 tuần lễ sẽ tăng thêm số lượng bạch cầu.

Chống chỉ định :

Câu kỷ tử tính hàn dễ bị tiêu chảy. Những người có bệnh đường ruột thường bị tiêu chảy, hoặc tỳ vị hư hàn thì không được dùng.

Bài này thuộc phần 16/16 trong Câu chuyện Đông Y tập 7 tác giả Đỗ Đức Ngọc