Top 4 # Xem Nhiều Nhất Cấu Trúc Của Cổ Họng Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Comforttinhdauthom.com

Cấu Trúc Của Cổ Họng Của Con Người Và Tính Năng Của Nó

tính năng giải phẫu cổ họng

Nén của cơ họng đẩy bolus vào thực quản, đó là cắt nhấp nhô, đẩy anh ấy vào bụng. Họng, thanh quản, hoặc, như đã được đề cập trước đó, một phần của hệ thống hô hấp. Nó nhận được không khí từ khoang mũi, hầu họng và hầu họng, trong khi được sưởi ấm và một phần làm sạch từ các hạt bụi. Trong thanh quản, bao gồm cặp và lẻ sụn có cơ sở hủy của hai sợi đàn hồi – dây thanh, nằm giữa thanh môn. thanh quản thấp đi vào khí quản. bức tường phía trước của nó được hình thành bởi sụn nửa vòng mà ngăn chặn các ống thở để giảm đường kính của nó. Bức tường sau khí quản gồm cơ trơn. luồng không khí tự do từ khí quản vào phế quản, và từ họ – đến phổi.

Vai trò rào cản của amidan

Bằng cách nghiên cứu cấu trúc của cổ họng con người, tập trung vào các cụm lifoidnoy mô gọi minadalinami. Chúng được hình thành cấu trúc mô học đặc biệt – nhu mô, phân tán trong stroma, bao gồm mô liên kết. Amiđan là sự hình thành của các tế bào lympho – yếu tố bảo vệ cơ thể chính immunoobrazuyuschih từ vi khuẩn gây bệnh. Quá trình này được gọi là lymphopoiesis. Xét cấu trúc giải phẫu cổ họng con người, amidan mà được phân biệt trên palatine, dưới lưỡi và họng, các nhà khoa học đã kết luận rằng sự sắp xếp này cho thấy chức năng rào cản của họ.

Hơn nữa, laryngology để nói về chiếc nhẫn limfoepitelialnogo, nằm trong màng nhầy ở ranh giới của khoang miệng và họng – vòng Pirogov-Heinrich Wilhelm Gottfried von Waldeyer-Hartz. Trong amidan miễn dịch gọi là miễn dịch cơ thể ngoại vi. Họ bao quanh tiền sảnh của khí quản và thực quản, bảo vệ các hệ thống hô hấp và tiêu hóa của sự xâm nhập của vi sinh vật gây bệnh. cấu trúc giải phẫu và sinh lý của cổ họng của con người, các hạch bạch huyết mà cung cấp bảo vệ và hàng rào chống lại sự ảnh hưởng có hại của môi trường, sẽ không đầy đủ nếu chúng ta không dừng lại ở cấu trúc như vậy amidan như khoảng trống.

chức năng cụ thể của khoảng trống

Nó phần hạch bạch huyết mà mất vào việc chụp hình đầu tiên của nhiễm trùng tụ cầu hoặc liên cầu khuẩn bị kẹt trong khoang miệng. Một số lượng lớn các tế bào lympho trung hòa tiêu hóa và vi khuẩn bị giết cùng một lúc.

Cụm tế bào lymphoid chết trong mủ khiếm khuyết hình phích cắm, cho thấy quá trình viêm phát sinh để đáp ứng với sự xâm nhập của các nhiễm vào cơ thể.

Larinks giọng nói giống như cơ thể

Giữa sụn arytenoid, có phần phụ là dây thanh – hai sợi rất mềm dẻo và đàn hồi. Tại thời điểm của sự im lặng dây thanh ngoài, và thanh môn rõ ràng giữa hai, có các hình thức của một tam giác cân. Trong ca hát hoặc nói dây thanh được đóng cửa và không khí, tăng từ phổi khi thở ra, gây rung động nhịp nhàng của họ được coi là âm thanh. điều chế âm thanh xảy ra do thay đổi vị trí của lưỡi, môi, má, hàm.

sự khác biệt giới tính trong cơ cấu cổ họng

Ở phụ nữ, góc trong những phần kết nối của sụn giáp trực quan hơn lồi này có thể không được phát hiện. Ngoài ra còn có một sự khác biệt trong cấu trúc của dây thanh. Ở nam giới, họ là dài và dày, và giọng nói rất thấp. Ở phụ nữ, dây thanh là mỏng hơn và ngắn hơn, giọng nói của họ là cao hơn và to hơn.

Bài viết này xem xét các khía cạnh giải phẫu và sinh lý của cơ cấu cổ họng con người.

Nổi Mụn Trắng Trong Cổ Họng

Cổ họng – nơi chịu nhiều tác động nhưng lại khá nhạy cảm. Khi đột nhiên bị nổi mụn trắng trong cổ họng ,bạn đừng xem thường bởi đó là dấu hiệu cảnh báo nhiều bệnh nguy hiểm nếu không có các biện pháp can thiệp kịp thời.

Nổi mụn trắng trong cổ họng là dấu hiệu đầu tiên của ung thư

Nổi mụn trắng trong cổ họng là dấu hiệu ban đầu của rất nhiều căn bệnh khác nhau, trong đó có ung thư vòm họng. Lúc bị bệnh, một số tế bào sẽ có màu trắng tương tự như mụn (hay còn gọi là bạch sản).

Vòm họng có cấu trúc mô bạch huyết phong phú. Do đó, một khi ở đây xuất hiện tế bào ung thư thì rất dễ lây lan tới các hạch vùng cổ và các bộ phận khác trong cơ thể. Lúc đó triệu chứng mắc bệnh rõ ràng hơn như: mệt mỏi, giảm cân, khó thở, đau xương…

Theo nghiên cứu của các chuyên gia, xác suất mắc bệnh ung thư khi cổ họng nổi mụn trắng không cao. Tuy nhiên, nếu không được phát hiện sớm và chữa trị kịp thời sẽ dẫn đến ung thư amidan, nguy hiểm đến tính mạng.

Nổi mụn trắng trong cổ họng là dấu hiệu của rất nhiều bệnh nguy hiểm

Không chỉ là dấu hiệu đầu tiên cảnh báo bệnh ung thư, nổi mụn trắng trong cổ họng còn cảnh báo nhiều bệnh khác nhau mà mức độ nguy hiểm của nó cũng đáng lo ngại như ung thư.

Nhiễm nấm

Có một loại vi khuẩn tên Candida rất dễ “trú ngụ” trong vòm họng và gây bao phiền toái cho bệnh nhân. Chức năng của vị giác sẽ bị suy giảm một cách nghiêm trọng khiến người bệnh không còn cảm giác được món ăn có ngon hay không, lâu dần dẫn đến chứng chán ăn. Những bệnh nhân bị nhiễm nấm, các đốm trắng không chỉ xuất hiện ở vòm họng mà còn nổi lên ở cả lưỡi và má.

Viêm amidan hốc mủ

Dấu hiệu đầu tiên của bệnh viêm amidan hốc mủ là các đốm trắng như mụn xuất hiện nhiều ở cổ họng. Nếu dùng tay ấn vào, có thể mũ sẽ chảy ra. Người bệnh sẽ cảm thấy rất vướng víu, đau rát ở cổ và đặc biệt là hơi thở có mùi. Nếu không chữa trị sớm từ đầu thì rất khó để trị dứt điểm vì để lâu bệnh sẽ chuyển sang mãn tính.

Khi vòm họng xuất hiện những đốm trắng như mụn, có thể bạn đang mắc phải bệnh viêm họng liên cầu khẩu. Các bác sĩ nhận định đây là bệnh lành tính, tuy nhiên nếu người bệnh chủ quan và để bệnh kéo dài hơn 2 tuần có thể dẫn đến sốt phát ban và nổi hạch.

Phòng và chữa nổi mụn trắng trong cổ họng tại nhà

Để không bị nổi mụn trắng vòm họng hoặc đẩy lùi tình trạng này, bạn phải thay đổi thói quen sinh hoạt và ăn uống hằng ngày của mình bằng cách:

Thường xuyên súc miệng với nước muối loãng: Nước muối loãng có tác dụng kháng viêm và diệt khuẩn tuyệt vời. Khi bị nổi mụn trắng trong cổ họng, bác sĩ khuyên bạn nên súc miệng bằng nước muối mỗi ngày 2-3 lần.

Thay đổi chế độ ăn uống: Nếu bạn đang hút thuốc lá, hay uống rượu bia, uống nước đá lạnh và ăn cay thì tốt nhất là bạn nên từ bỏ nếu không muốn tình trạng diễn biến xấu hơn. Thay vào đó, bạn nên uống nhiều nước, bổ sung rau xanh và hoa quả có tính mát vào các bữa ăn hằng ngày.

Thay đổi thói quen sinh hoạt: Việc thường xuyên thức khuya và ngủ không đủ giấc cũng có thể khiến cho tình trạng nổi mụn trắng vòm họng diễn ra trầm trọng hơn.

Nổi mụn trắng trong cổ họng là triệu chứng ban đầu của rất nhiều căn bệnh nguy hiểm. Do đó, bạn đừng xem thường, hãy theo dõi kỹ triệu chứng. Nếu đã thử các cách trên mà tình trạng nổi mụn trắng vẫn không có dấu hiệu suy giảm thì tốt nhất bạn nên nhanh chóng đến cơ sở y tế kiểm tra để điều trị hiệu quả, để lâu tình trạng sẽ nguy hiểm và khó điều trị dứt điểm.

Loạt Bài Này Viết Về Cấu Trúc Của 6 Câu Vọng Cổ

Loạt bài này viết về cấu trúc của 6 câu vọng cổ hiện tại để bạn đọc nào thích cổ nhạc có thể hiểu hoặc viết lời ca cho một bài vọng cổ. Trước khi viết về phần cấu trúc, xin nói sơ qua về xuất xứ của 6 câu vọng cổ.

6 câu vọng cổ ngày nay nằm trong lãnh vực ca nhạc Cải Lương. Cải lương lại nằm trong nhạc Tài Tử Nam Bộ . 6 câu vọng cổ được xử dụng cho những bài hát vọng cổ đơn độc hay trong các tuồng cải lương .

Nhạc Tài Tử Nam Bộ có từ đầu thế kỷ 20 . Nền âm nhạc này được thành hình nhờ các nhạc sĩ và quan lại từ Huế vào sinh sống trong nam. Loại nhạc này cũng còn chịu nhiều ảnh hưởng của các âm điệu nhạc của các xứ Quảng Nam, Quảng Ngãi.Thí dụ, những bài hát lý từ xứ Quảng. Tuy chịu ảnh hưởng sâu, nhưng cung điệu cùng giọng hát khi vào nam đã thay đổi rất nhiều. Vì xuất phát từ nền nhạc Huế nên nhạc Tài Tử Nam Bộ là một nền âm nhạc dồi dào, bác học, có lý thuyết hản hòi.Các âm điệu, nghệ thuật ứng tác, ứng tấu, tô điểm hoa lá đều có cả.

Nhưng vì các tay đờn loại nhạc này đều không theo nghiệp cầm ca nên loại nhạc này được gọi là nhạc Tài Tử. Đúng ra phải gọi là nhạc Tài Tử Nam Bộ . Danh từ tài tử có nghĩa người tài ba nhưng cũng còn có nghĩa là không chuyên nghiệp . Tuy không chuyên nghiệp nhưng các thầy đờn danh tiếng đều được coi như những bậc thầy của các bộ môn âm nhạc Tài Tử. Thầy đờn là tiếng gọi các nhạc sư, nhạc sĩ ngày xưa. Không dễ gì người thường dù có tiền có thể nghe được tiếng đàn của họ. Thường thì họ chỉ tu.tập trình diễn cho nhau nghe, khi rảnh rỗi.Loại nhạc này được truyền rộng rãi trong nhân gian, vì thế nó được giới bình dân ưa chuộng .

Trước khi cải lương ra đời, nhạc Tài tử gồm nhiều bài bản thuộc về nhạc Cung Đình, Ca Huế, Hò, Lý. Sân khấu thời đó chỉ có Hat’ Bội.Các bài ca cổ nhạc xử dụng các bài bản cũ, hát rất công phu vì phải theo đúng cung nhịp của nó. Cũng như ta hát tân nhạc bây giờ. Sự khác biệt giữa tân nhạc và cổ nhạc là cổ nhạc ít có sáng tác mới về bản nhạc. Mỗi bản nhạc được xử dụng rất nhiều lần để soạn giả viết lời ca. Vì thế khi hát một bài cổ phải biết bài hát đó hát theo nhạc Tây Thi, Cổ Bản, Tứ Đại Oán, Trường Tương Tư, v.v. Lối hát này rất khắt khe vì ca sĩ phải thuộc cả âm điệu của bản nhạc mà các bản nhạc cổ đều có âm điệu khó học thuộc lòng . Từ đầu đến cuối bài đều dài mà không có các đoạn lập đi lập lại thành điệp khúc, tiểu khúc, với luật cân phương AABA như tân nhạc.

Nhạc Cải Lương ra đời vào năm 1917 . Gọi là cải lương vì có sự thay đổi lớn trong cách dàn dựng, y phục và lời ca . Sân khấu cải lương mầu mè lộng lẫy, có khuynh hướng kỹ thuật Tây phương. Tuồng tích có lớp lang, Các bài ca cũng phong phú hơn . Trước khi có 6 câu vọng cổ, các bài ca cải lương thịnh hành là bài Hành Vân và bài Tứ Đại Oán . Hiện nay các bài ca soạn theo bộ môn, tức các nhạc bản xưa vẫn có nhưng càng ngày càng hiếm đi nhường chỗ cho 6 câu vọng cổ .

Tiền thân của 6 câu vọng cổ là bài Dạ Cổ Hoài Lang. Lúc đầu bài hát này rất đơn giản nhưng dần già các nhạc sĩ thêm mỗi người một khúc, làm thành 6 câu vọng cổ . Có thể nói cha đẻ ra sáu câu vọng cổ là ông Cao Văn Lầu, nhưng cha nuôi của nó là các nhạc sĩ dân gian, vô danh.

Ông Cao Văn Lầu, tục gọi ông Sáu Lầu, sinh năm 1890 ở Vũng Gù, sau đổi thành tỉnh Long An rồi Tân An . Thuở nhỏ đã theo cha mẹ sang sống ở Bạc Liêu . Tác gỉa cũng không nhớ rõ, nên sách vở giờ đây ghi bài Dạ Cổ Hoài Lang được sáng tác vào năm 1919 hay 1920 .

Ông Sáu Lầu không nói, nhưng có hai giả thuyết về hoàn cảnh sáng tác bài hat’ này . Giả thuyết thứ nhất, của nhiều người như sách của ông Trần Văn Khải, thì sau khi lập gia đình được 10 năm mà ông không có con nối giòng nên cha mẹ ông buộc ông cưới vợ khác . Ông Sáu Lầu thời gian ấy nhớ lại cảnh lúc chia ly với bà vợ cũ, ông sáng tác bài Dạ Cổ , sau đổi thành Dạ Cổ Hoài Lang . Dạ Cổ Hoài Lang nghĩa là đêm khuya nghe trống nhớ chồng . Giả thuyết thứ hai, của giáo sư âm nhạc Thuyết Phong, nhân chuyến viếng thăm của đoàn nhạc sĩ từ Huế vào, ông Sáu Lầu đã viết bản nhạc này để tặng đoàn nghệ sĩ Huế .

Với dòng thời gian, các nhạc sĩ thêm nốt nhạc, lời ca, vào mỗi câu của bài Dạ Cổ Hoài Lang nói trên . Mỗi câu lúc ban đầu chỉ có 2 nhịp . Sau lên 4 nhịp rồi 8, 16, 32, 64 nhịp . Ngày nay thông dụng là câu vọng cổ 32 nhịp .

Nhưng vì mỗi câu bây giờ có tới 32 nhịp, dài quá nên ca sĩ không hát nguyên bài 20 câu nữa mà chỉ hát tối đa 6 câu, nên gọi là 6 Câu Vọng Cổ .

Lúc đầu chỉ có các câu hát vọng cổ thuần túỵ Khi nghệ sĩ Út Trà Ôn hát bài Vọng Cổ 16 nhịp thì có thêm ngâm thơ Lục Vân Tiên.

Bài 6 câu vọng cổ 32 nhịp đầu tiên xuất hiện năm 1953 . Đó là bài Đội Gạo Đường Xa kể chuyện thầy Tử Lộ . Hữu Phước hát . Tác giả bài vọng cổ tên là Hà Huy Hà, tức thi sĩ Kiên Giang, tác giả bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím .

Về cấu trúc bài 6 câu vọng cổ, hiện tại có hai chúng tôi Một dạng dùng để hoà nhạc và một dạng nữa dùng để ca cải lương . Hai cách dàn đựng này thực ra không khác nhau bao nhiêu.Có khác chăng là trong một bài vọng cổ có phần chỉ có hát mà không có đàn, và ngược lại .

Trước khi đi vào phần cấu trúc của 6 câu vọng cổ, một số căn bản cần biết trong cổ nhạc:

1/ một “Nhịp” trong cổ nhạc là một trường canh (mesure). Nhạc cổ chỉ có nhịp 2/4 hay 4/4. Bài 6 câu vọng cổ ngày nay theo nhịp 4/4. Vậy một nhịp có bốn phách . Một phách là một nốt đen. Trái lại với nhạc Âu Mỹ, phách mạnh (temps fort) trong cổ nhạc là phách chẵn.

2/ Mỗi câu vọng cổ có 32 nhịp, trừ câu thứ nhất và có thể câu thứ tư . Một bài 32 nhịp được coi như gần bằng một bài hát tân nhạc . Câu thứ tư có thể có 16 hay 32 nhịp.

3/ Danh từ “câu” vọng cổ là một đoạn nhạc, trong đó có 32 nhịp nhạc và nhiều “câu” hát.

4/ Cổ nhạc không có tam trình (tierce), vì thế trong cổ nhạc không phân biệt hợp âm trưởng (majeur) hay thứ(mineur).

5/ Đàn nên đi theo lời ca cho hợp với làn hơi ca sĩ, đánh từng nốt, có thể nhiều nốt liên tục và mau lẹ như nhạc jazz nhưng không có hợp âm . Khi đàn hoà nhạc phải theo bài bản hẳn hòi, không có biến chế tại chỗ. Nhưng khi đàn cho ca sĩ ca, nếu không thuộc bản, thì có thể đàn miễn sao cho hợp với giọng ca, nhưng nốt nhạc cuối cùng của mỗi câu vọng cổ phải theo quy luật cố định sẽ nói trong phần cấu trúc.

6/ Về dây đàn, trừ những trường hợp đặc biệt, có hai loại dây cho ca sĩ ca là dây Đào (Hò Nhất) và đây Kép (Hò Ba). Cho nữ giới, nốt Hò thường là nốt Sol và nốt Đô cho nam giới. Cũng có những trường hợp ngoại lệ dây đàn phải theo giọng ca như giọng ca của nghệ sĩ Minh Cảnh.

7/ Danh từ “Nhồi” để chỉ phần đàn không ca bắt đầu từ nhịp sau cùng của một câu vọng cổ sang phần đầu của câu vọng cổ kế tiếp. Phần đờn này rất quan trọng vì nó định tốc độ của những câu hát theo sau .

8/ Danh từ “Rao” để chỉ phần nhạc đệm theo các khúc ngâm thơ, Hò, hát Lý, ca tân nhạc v.v. không thuộc vào 6 câu vọng cổ cơ bản . Những đoạn rao thường ở ngay đầu bài vọng cổ, trước câu 1 hay ở giữa trước câu 4 . Đoạn ngâm thơ hay hát này tự do, nhiều tác giả gọi là phần “Nói Lối”

9/ Danh từ “Nói Lối” cũng để chỉ đoạn sau khi “Rao” và trước khi chính thức câu vọng cổ thì đàn ngừng lại và ca sĩ vô một đoạn rất dài và cuối cùng xuống nốt Hò. Lúc đó thì khán giả vỗ tay. Phần này thường được gọi một cách bình dân là “vô vọng cổ” .

10/ Dụng cu.âm nhạc ca vọng cổ thường dùng là bộ gõ gồm trống và Song Lang. Các loại đàn như đàn Kìm(Nguyệt) , đàn Cò (Nhị), Đàn Gáo (giống đàn cò nhưng tiếg trầm, nếu tiếng đàn cò là Vĩ Cầm thì đàn Gáo là Đại Vĩ Cầm), đàn Tranh, đàn Sến, đàn Ghi Ta phím lõm. Ít khi dùng đàn Tỳ Bà, đàn bầu.

11/ Song Lang là một dụng cu.nhỏ như cái mõ dùng để giữ nhịp . Người đàn nghe theo tiếng “cốc” của Song Lang mà theo nhịp . Song Lang gồm một cái mõ ở đưới, trên có một quả gõ là một cục gỗ hình bầu dục to khoảng bằng đầu ngón tay cái, công dụng để gõ. Cả hai được nối liền vào một thanh sắt dẻo tên gọi “Lưỡi Gà” hình chữ U để bàn chân đập vào làm cho quả gõ đụng vào cái mõ kêu lên một tiếng “cốc”.

A/ CẤU TRÚC BÀi VỌNG CỔ ĐỂ HOÀ NHẠC .

Khi độc tấu hay hoà nhạc, có thể đờn ba câu 1,2,3 hay nguyên 6 câụ

Trước khi đờn những câu này còn có một đoạn nhạc dạo đầu.Nhịp cuối cùng của đoạn dạo đầu này thường được coi là nhịp 16 của câu thứ nhất. Nếu hoà nhạc thì chỉ có một cây đàn đánh trước đoạn dạo này và người nào dạo đoạn nhạc này còn điều khiển thêm song lang để giữ nhịp . Các câu vọng cổ trong bản đàn có 32 nhịp trừ câu thứ nhất có 16 nhịp. Vì trước câu vọng cổ thứ nhất còn có phần dạo đàn hay rao khoảng 16 nhịp nên thường thường, nhạc sĩ gọi nhịp đầu của câu vọng này là nhịp 17.

Các câu vọng cổ không có nốt nhạc nhất đi.nh. Mỗi nhạc sĩ có quyền chế biến các nốt nhạc theo ý mình, tùy hứng, trừ số nhịp nhất định và một số nốt ở các phách cố định sẽ nói trong phần cấu trúc của từng câu.

Tuy một bài vọng cổ có 6 câu nhưng ít khi có ai viết một bài với tất cả 6 câu.Thường thường những bài vọng cổ chỉ có khoảng 3 hay 4 câu.Câu 3 khó ca nên ít ai dùng. Câu 4 giống câu 1 . Một bài vọng cổ thông thường xử dụng các câu 1, 2, 4 và 5. Nói chung cách xếp đặt số câu trong một bài vọng cổ tùy vào hứng của tác giả .

Trước câu 1 và câu 4 có phần “Rao”, “Nói lối”. Có thể là một đoạn thơ, Hò, Hát Lý, một đoạn tân nhạc hay một bài cổ nhạc nhỏ như Lý Con Sáo, Ú Liu Ú Xáng, Tử Quy Từ, Lưu Thuỷ Hành Vân, v.v.

Trứớc khi bắt đầu câu 1 hay câu 4, có một đoạn ngắn cũng gọi là “Nói Lối”. Phần này chỉ hát không đàn và khi ca sĩ chấm dứt xuống Hò thì khán gỉa vỗ taỵ Ban nhạc phải đợi thời gian hai nhịp để cho khán gia, vỗ tay rồi mới vô đàn . Tuy đoạn này không bắt buộc nhưng thiếu đoạn này coi như bài vọng cổ mất hào hứng .

Ngoài ra trước các câu vọng cổ 2, 3, 5, 6 có thể thêm một vài câu thợ Đàn tự do chỉ “Rao” theo làn hơi của ca sĩ .

Từ khi soạn giả Viễn Châu đưa tân nhạc vào giao duyên với cổ nhạc thì trước mỗi câu vọng cổ, có thể hát một đoạn tân nhạc. Đây là trường hợp của một số bài như Đêm Tàn Bến Ngự, Đò Chiều, Tình Anh Lính Chiến v.v.

THÍ DỤ : BÀI VỌNG CỔ BẠCH THU HÀ

(tức : Bạch Thu Hà Khóc Võ Đông Sơ)

Trong khói hương mơ màng tung bay

Đêm tóc tang u buồn nhớ ai

Nửa chừng duyên kiếp chia phôi

Ai đi cách mấy phương trời

Duyên trúc mai vĩnh viễn xa rồị

Ai biết đâu một lần chia tay

Riêng thiếp cam chịu nhiều đắng cay

Mối sầu bao thuở chưa nguôi

Bao đắng cay than chẳng nên lờị

Lối : Võ lang ơi đôi ngã sâm thương uyên ương rã

cánh, thiếp đành cam gãy gánh chung … tình. (HÒ)

Gió kép mưa đơn, thiếp thui thủi một mình. (HÒ)

Chàng hy sinh đền ơn xã tắc

Thiếp nghẹn ngào tím ruột bầm gan. (XÊ)

Rảo bước theo đám quân canh đến trước tùng đình

Thiếp ngập ngừng chưa dám bước vào trong. (XANG)

Bởi thiếp đây đâu dám ngờ rằng

Võ Đông Sơ đã ra người thiên cổ . (CỐNG)

Đàn đứt dây rồi phím đã long

Làm sao dạo được bản tương phùng. (HÒ)

Thiếp gởi niềm đau theo giọt lệ ly tình. (HÒ)

Trống thành tây mấy dùi khoan nhặt

Thiếp hãi hùng như tiếng trống tàn canh. (XÊ)

Bẽ bàng thay tuổi đầu xanh

Đầu xanh vương lấy nợ tình mà chi . (XANG)

Một buổi phân kỳ lệ hận trào tuông. (XANG)

Lối : Thiếp muốn xé tan áng mây trên tầng cao diệu

vợi, để hỏi thử cao xanh ông ghét ghen chi mà để tội

Một kiếp quần thoa lận đận biết bao ngày . (HÒ)

Nhưng mảnh kiên trinh thiếp nguyền vẹn giữ

Cho trọn lời đoan thệ cùng ai . (XÊ)

Thôi rồi đá nát vàng phai

Cầu Ô lỡ nhịp mộng đời dở dang. (XANG)

Nhìn lên trướng rủ màu tang

Chàng đi để thiếp khóc than một mình. (HÒ)

Ánh nguyệt mới nhô lên đã bi.phủ che bởi vầng mây xám. (HÒ)

Cũng như đời thiếp vừa thoát cơn khổ nạn

Đã đành cam vắng bạn chung tình. (HÒ)

Quấn mảnh khăn tang thiếp quỳ trước tùng đình. (HÒ)

Chàng ra đi muôn đời không trở lại

Chén rượu đào thiếp đưa tiễn ai đây . (XÊ)

Rượu sanh ly dưới làn hương khói

Trước linh sàng thiếp thổn thức từng cơn. (XANG)

Rượu đôi chun, lễ người thiên cổ

Tiễn đưa ai đi mãi không về . (XỀ)

Võ lang, Võ lang, Trời ơi (XANG)

thiếp đã gào lên mấy lượt

Sao chàng vẫn im lìm trong cỗ áo quan. (CỐNG)

Bạch lạp lờ mờ như đổ lệ sầu than

Khóc cho đời thiếp bẽ bàng duyên hương lửa . (XANG)

Lời đoan thệ đã bay theo ngọn gió

Thì còn tiếc chi thân của Bạch Thu Hà . (XỀ)

Võ lang ôi, thiếp mượn lưỡi báu đao phủi rồi nợ thế . (XANG)

Để nơi miền âm cảnh, Bạch Thu Hà hội ngộ Võ Đông Sơ . (HÒ)

Lối : Võ lang ơi đôi ngã sâm thương uyên ương rã

cánh, thiếp đành cam gãy gánh chung … tình. (HÒ)

Gió kép mưa đơn, thiếp thui thủi một mình. (HÒ)

Chàng hy sinh đền ơn xã tắc

Thiếp nghẹn ngào tím ruột bầm gan. (XÊ)

Rảo bước theo đám quân canh đến trước tùng đình

Thiếp ngập ngừng chưa dám bước vào trong. (XANG)

Bởi thiếp đây đâu dám ngờ rằng

Võ Đông Sơ đã ra người thiên cổ . (CỐNG)

Câu vọng cổ 1 có 16 nhịp . Tuy nhiên trước đó đã có phần ngâm thơ, ca tân nhạc, rao lý con sáo, v.v và có một đoạn nói lối vô vọng cổ ngay trước khi khán giả vỗ taỵ

Phần nói lối này ca không có đàn, trừ chữ cuối cùng là nốt Hò. Chữ cuối cùng này ăn với nốt Hò nên chữ này phải có dấu HUYỀN . Nốt này được gọi là nốt Hò 16 vì theo quy định, nhịp đầu của câu vọng cổ 1 bắt đầu là nhịp 17. Trong cổ nhạc, nốt cuối cùng của một nhịp rất quan chúng tôi Nốt này không phải là nốt mở đầu mà để chấm dứt một đoạn ca.

Câu nói lối này trung bình khoảng 2, 3, 4 câu văn hay câu thơ . Ca tự do (ad. lib) tuỳ theo ca sĩ . Hai chữ áp chót rất quan trọng vì lúc đó ca sĩ bắt đầu ngân nga lên xuống, các nhạc sĩ chờ vô nốt Hò, khán giả đưa hai bàn tay chờ đợi, hồi hộp vì không biết làn hơi của ca sĩ ngân nga tới lúc nào mới xuống nốt cuối cùng, đặng vỗ tay . Lấy bài vọng cổ BẠCH THU HÀ làm thí du.thì câu nói lối sẽ là :

Lối : Võ lang ơi đôi ngã sâm thương uyên ương rã

cánh, thiếp đành cam gãy gánh chung … tình. (HÒ)

Sau đó thì đến phần vọng cổ câu 1 gồm 16 nhịp, đếm bắt đầu từ nhịp 17.

Quy luật: Hò 16, Hò 20, Xê 24 (SL), Xang 28, Cống 32

2 – Khi đến nốt Hò 16 thì đàn vô nốt Hò rồi nghỉ hai phách (nhịp tây phương 2 nốt đen). Lúc này thì khán giả vỗ tay . Sau khi nghỉ hai phách thì đờn tiếp 2 phách còn lại của nhịp 17, nhịp 18, nhịp 19 . Ca sĩ ca chung với đàn một câu ở nhịp 20. Thường thường hát cho mỗi nhịp là một câu văn hay thơ khoảng 8 ,9, 10 chữ, miễn sao cho đủ 4 phách . Nhịp 20 kết bằng nốt Hò . Chữ cuối cùng mang dấu huyền . Thí dụ trong câu 1 của bài Bạch Thu Hà :

Gió kép mưa đơn, thiếp thui thủi một mình. (HÒ)

3 – Đàn hai nhịp 21 và 22 . Đàn và hát chung nhịp 23, 24 . Nốt cuối cùng của nhịp 24 là nốt Xệ Nhịp 24 còn gọi là nhịp Song Lang vì trong 6 câu, tới đây nhạc sĩ gõ Song Lang. Chữ của câu hát ở nốt Xê không có dấu .

Chàng hy sinh đền ơn xã tắc

Thiếp nghẹn ngào tím ruột bầm gan. (XÊ)

4 – Đàn hai nhịp 25 và 26 . Đàn và hát chung nhịp 27, 28 . Nốt cuối cùng của nhịp 28 là nốt Xang. Chữ hát ở nốt Xang này không có quy định về dấu .

Rảo bước theo đám quân canh đến trước tùng đình

Thiếp ngập ngừng chưa dám bước vào trong. (XANG)

5 – Đàn hai nhịp 29 và 30 . Đàn và hát chung nhịp 31, 32 . Nốt cuối cùng của nhịp 32 là nốt Cống. Chữ hát ở nốt Cống phải mang vần trắc .

Bởi thiếp đây đâu dám ngờ rằng

Võ Đông Sơ đã ra người thiên cổ . (CỐNG)

Đàn đứt dây rồi phím đã long

Làm sao dạo được bản tương phùng. (HÒ)

Thiếp gởi niềm đau theo giọt lệ ly tình. (HÒ)

Trống thành tây mấy dùi khoan nhặt

Thiếp hãi hùng như tiếng trống tàn canh. (XÊ)

Bẽ bàng thay tuổi đầu xanh

Đầu xanh vương lấy nợ tình mà chi . (XANG, xể )

Một buổi phân kỳ lệ hận trào tuông. (XANG)

Quy luật: Xê 4, Xang 8, Xang 12, Hò 16, Hò 20, Xê 24 (SL), Xê 28, Xang 32

Nếu ca dài có thể ca vào các nhịp 4, 8, 12. Bình thường các bài vọng cổ ca vào nhịp 16.

1- Khi đàn nhồi qua câu hai, đánh hết nhịp 1, 2. Nếu hat’ ngay có thể bắt đầu hát từ nhịp thứ3, đến hết nhịp 4. Nốt cuối cùng là Xê, không có quy luật bằng trắc.

2- Đàn hết nhịp 5, 6. Nếu hát ngay có thể bắt đầu hát từ nhịp thứ 7, đến hết nhịp 8. Nốt cuối cùng là Xang, không có quy luật bằng trắc.

3- Đàn hết nhịp 9,10. Nếu hát ngay có thể bắt đầu hát từ nhịp thứ 11, đến hết nhịp 12. Nốt cuối cùng là Xang, không có quy luật bằng trắc.

Từ nhịp 16 đến 32, sự hoà hợp giữa đàn và hát giống như câu một . Quy luật của chữ và nốt nhạc như sau :

4- Đàn nhịp 13, 14.

5- Đàn và hát nhịp 15, 16. Nhịp 16 kết bằng nốt Hò, dấu huyền.

6- Đàn nhịp 17, 18, 19.

5- Đàn và hát nhịp 20. Nhịp 20 kết bằng nốt Hò, dấu huyền.

6- Đàn nhịp 21, 22.

7- Đàn và hát nhịp 23, 24. Nhịp 24, nhịp Song Lang, kết bằng nốt Xê, chữ cuối không có dấụ

8- Đàn nhịp 25, 26.

9- Đàn và hát nhịp 27, 28. Nhịp 28 kết bằng nốt Xê, dấu gì cũng được. Trong câu hai của bài Bạch Thu Hà, câu này bản in viết XANG, đúng quy liật phải là Xệ

10- Đàn nhịp 29,30.

11- Đàn và hát nhịp 31, 32. Nhịp 32 kết bằng nốt Xang, không dấu.

[Câu 3] bài Bạch Thu Hà không có câu 3, xin thí du.bằng câu 3 bài Tề Thiên Đại Thánh.

Nói đến cái tài biến hóa của lão Tôn thì ôi thôi không nói nổi

Lão Tôn chỉ nhổ một sợi lông thổi bùa (XANG 12) một cái

tức thì khỉ to khỉ nhỏ khỉ đực khỉ cái xuất hiện rần rần vậy hà.

Bởi vậy một bữa nọ sau khi nhậu nhẹt say sưa (XANG 16)

lão Tôn cao hứng nhảy ùm xuống biển tắm chơi cho nó

mát. Ai ngờ cả lâu đài cung điện của Long Vương đều rung rinh muốn sập (XÊ 20)

Long Vương nhảy lên cự nự, bi.lão Tôn dợt một hồi

ổng cuốn vó chạy te vậy hà (CỐNG 24)

Đó rồi sẳn dịp muốn lấy le, lão Tôn nhổ phứt cái

cột chầu của Long Vương làm cây thiết bảng (XANG 28)

Long Vương phục tài của lão Tôn quá mạng nên mới năn

nỉ lão Tôn kết bạn tâm đồng (HÒ 32)

Quy luật : Xê 4, Xang 8, Xang 12, Xang 16, Xê 20, Cống 24 (SL), Xê/Xang 28, Hò 32

Nếu ca dài có thể ca vào các nhịp 4, 8, 12. Nếu bài hát ngắn có thể đặt lời bắt đầu cho Hò 16.

Nhịp 24, nhịp Song Lang, kết bằng nốt Cống. Thực ra câu hát kết bàng Cống nhưng đàn còn thêm nốt nữa là Xệ Nói rõ hơn, chỗ này đàn đánh Xê, Cống, Xê .

Nhịp 28 có thể là nốt Xê hoặc Xang. Có thể đánh Xang cho nữ ca sĩ; Xê cho nam ca sĩ. Người đánh đàn có thể đánh nốt Xang rồi nhấn dây cao lên nốt Xệ

Vì câu 3 thường có lời dài, câu hát không có quy định bắt đầu từ đâu, nên có thể đặt dài ngắn tùy ý nhưng phải kết câu cho đúng ở các nốt trong quy luật đã nói ở trên. Thường thường một câu thơ 7,8,9 chữ là một nhịp đàn 4 phách (nốt đen).

1- Ở nốt kết Xê4, Xang 8, Xang 12 : không áp dụng luật bằng trắc . Về phần đàn, các nốt này đánh Xang, nhấn cao lên tới Xê .

2- Xang 16 : vần trắc hay không dấu . Chỗ này đàn đi tiếp Xê Cống Xê

3- Xê 20, Xê/Xang 28 : không áp dụng luật bằng trắc .

5- Hò 32 : dấu huyền.

Lối : Thiếp muốn xé tan áng mây trên tầng cao diệu

vợi, để hỏi thử cao xanh ông ghét ghen chi mà để tội

Một kiếp quần thoa lận đận biết bao ngày . (HÒ)

Nhưng mảnh kiên trinh thiếp nguyền vẹn giữ

Cho trọn lời đoan thệ cùng ai . (XÊ)

Thôi rồi đá nát vàng phai

Cầu Ô lỡ nhịp mộng đời dở dang. (XANG)

Nhìn lên trướng rủ màu tang

Chàng đi để thiếp khóc than một mình. (HÒ)

Câu vọng cổ 4 có 32 nhịp . Có hai cách ca: Ca ngắt hay ca suốt.

Ca ngắt: Sau câu vọng cổ 2 hay 3 thì đàn ngừng lại . Ca sĩ bắt đầu ngâm thơ, nói lối rồi mới vô vọng cổ câu 4. Cách ca này khán giả được vỗ taỵ

Ca suốt: Sau câu 2 hay câu 3, không có ngâm thơ, nói lối.Đàn dạo 16 nhịp đầu của câu 4 rồi ca sĩ bắt tiếp vào hát 16 nhịp còn lại .

Về cấu trúc, câu 4 giống câu 1 trừ hai nhịp đàn cuối cùng. Câu một nhịp 32 kết bằng Cống, câu 4 kết bằng Hò .

Quy luật: Hò 16, Hò 20, Xê 24 (SL), Xang 28, Hò 32

1 – Nốt cuối cùng của nhịp 16, nói lối, phải là nốt Hò. Chữ này phải có dấu huyền.

2 – Khi dến nốt Hò 16 thì đàn vô nốt Hò rồi nghỉ hai phách (nhịp tây phương 2 nốt đen). Lúc này thì khán giả vỗ tay . Sau khi nghỉ hai phách thì đờn tiếp 2 phách còn lại của nhịp 17, nhịp 18, nhịp 19 . Ca sĩ ca chung với đàn một câu ở nhịp 20. Thường thường hát cho mỗi nhịp là một câu văn hay thơ khoảng 8 ,9, 10 chữ, miễn sao cho đủ 4 phách . Nhịp 20 kết bằng nốt Hò . Chữ cuối cùng mang dấu huyền .

3 – Đàn hai nhịp 21 và 22 . Đàn và hát chung nhịp 23, 24 . Nốt cuối cùng của nhịp 24 là nốt Xệ Nhịp 24 còn gọi là nhịp Song Lang vì trong 6 câu, tới đây nhạc sĩ gõ Song Lang. Chữ của câu hát ở nốt Xê không có dấu .

4 – Đàn hai nhịp 25 và 26 . Đàn và hát chung nhịp 27, 28 . Nốt cuối cùng của nhịp 28 là nốt Xang. Chữ hát ở nốt Xang này không có quy định về dấu .

5 – Đàn hai nhịp 29 và 30 . Đàn và hát chung nhịp 31, 32 . Nốt cuối cùng của nhịp 32 là nốt Hò. Chữ hát ở nốt Hò phải có dấu huyền.

Ánh nguyệt mới nhô lên đã bi.phủ che bởi vầng mây xám. (HÒ 12)

Cũng như đời thiếp vừa thoát cơn khổ nạn

Đã đành cam vắng bạn chung tình. (HÒ 16)

Quấn mảnh khăn tang thiếp quỳ trước tùng đình. (HÒ 20)

Chàng ra đi muôn đời không trở lại

Chén rượu đào thiếp đưa tiễn ai đây . (XÊ 24)

Rượu sanh ly dưới làn hương khói

Trước linh sàng thiếp thổn thức từng cơn. (XANG 28)

Rượu đôi chun, lễ người thiên cổ

Tiễn đưa ai đi mãi không về . (XỀ 32)

Quy luật: Hò 8, Hò 12, Hò 16, Hò 20, Xê 24 (SL), Xê/Xang 28, Xê 32

Nếu ca dài có thể ca vào các nhịp 8, 12. Bình thường các bài vọng cổ ca vào nhịp 16.

1- Từ nhịp 1 tới 6 là hoà nhạc. Không có quy luật bằng trắc.

2- Câu 7, 8 có thể bắt đầu hát . Kết bằng Hò. Không có quy luật bằng trắc.

3- Đàn hết nhịp 9,10. Nếu hát ngay có thể bắt đầu hát từ nhịp thứ 11, đến hết nhịp 12. Nốt cuối cùng là Hò, không có quy luật bằng trắc.

4- Đàn nhịp 13, 14.

5- Đàn và hát nhịp 15, 16. Nhịp 16 kết bằng nốt Hò, dấu huyền.

6- Đàn nhịp 17, 18, 19.

5- Đàn và hát nhịp 20. Nhịp 20 kết bằng nốt Hò, dấu huyền.

6- Đàn nhịp 21, 22.

7- Đàn và hát nhịp 23, 24. Nhịp 24, nhịp Song Lang, kết bằng nốt Xê, chữ cuối không có dấụ

9- Đàn và hát nhịp 27, 28. Nhịp 28 có thể là nốt Xê hoặc Xang. Có thể đánh Xang cho nữ ca sĩ; Xê cho nam ca sĩ. Người đánh đàn có thể đánh nốt Xang rồi nhấn dây cao lên nốt Xệ Không áp dụng luật bằng trắc ở nốt nàỵ

10- Đàn nhịp 29,30.

11- Đàn và hát nhịp 31, 32. Nhịp 32 kết bằng nốt Xề thấp, dấu huyền.

Võ lang, Võ lang, Trời ơi (XANG 12)

thiếp đã gào lên mấy lượt

Sao chàng vẫn im lìm trong cỗ áo quan. (CỐNG 16)

Bạch lạp lờ mờ như đổ lệ sầu than

Khóc cho đời thiếp bẽ bàng duyên hương lửa . (XANG 20)

Lời đoan thệ đã bay theo ngọn gió

Thì còn tiếc chi thân của Bạch Thu Hà . (XỀ 24)

Võ lang ôi, thiếp mượn lưỡi báu đao phủi rồi nợ thế . (XÊ 28)

Để nơi miền âm cảnh, Bạch Thu Hà hội ngộ Võ Đông Sơ . (HÒ 32)

Quy luật: Xê 4, Xê 8, Xang 12, Công 16, Xê/Xang 20, Xê 24 (SL), Xê 28, Hò 32

Nếu ca dài có thể ca vào các nhịp 4, 8, 12. Bình thường các bài vọng cổ ca vào nhịp 16.

1- Khi đàn nhồi qua câu năm, đánh hết nhịp 1, 2. Nếu hat’ ngay có thể bắt đầu hát từ nhịp thứ3, đến hết nhịp 4. Nốt cuối cùng là Xê, không có quy luật bằng trắc.

2- Đàn hết nhịp 5, 6. Nếu hát ngay có thể bắt đầu hát từ nhịp thứ 7, đến hết nhịp 8. Nốt cuối cùng là Xê, không có quy luật bằng trắc.

3- Đàn hết nhịp 9,10. Nếu hát ngay có thể bắt đầu hát từ nhịp thứ 11, đến hết nhịp 12. Nốt cuối cùng là Xang, không có quy luật bằng trắc.

5- Đàn và hát nhịp 15, 16. Nhịp 16 đàn Xê, Cống, Xê, không áp dụng luật bằng trắc.

6- Đàn nhịp 17, 18, 19.

5- Đàn và hát nhịp 20. Nhịp 20 kết bằng nốt Xê hay Xang, dấu gì cũng được.

7- Đàn và hát nhịp 23, 24. Nhịp 24, nhịp Song Lang, kết bằng nốt Xê, chữ cuối có dấu HUYỀN.

8- Đàn nhịp 25, 26.

9- Đàn và hát nhịp 27, 28. Nhịp 28 có thể là nốt Xê, Không áp dụng luật bằng trắc .

10- Đàn nhịp 29,30.

11- Đàn và hát nhịp 31, 32. Nhịp 32 kết bằng nốt Xề Hò, không có dấu.Đây là nốt Hò duy nhất của nhịp 32 trong 6 câu vọng cổ không mang dấu huyền .

Nơi đây xin chấm dứt 6 câu vọng cổ. Mời các bạn sáng tác.

2 Bửu kiếm sắc phong lên đàng

3 Vào ra luống trông tin chàng

5 Em luống trông tin nhạn (chàng)

8 Xin đó đừng phu.nghĩa tào khang

9 Còn đêm luống trông tin bạn

10 Ngày mòn mỏi như đá vọng phu

11 Vọng phu vọng, luống trông tin chàng

12 Lòng xin chớ phu.phàng

13 Chàng hỡi, chàng có hay

14 Đêm thiếp nằm luống những sầu tây

15 Biết bao thuở đó đây xum vầy

16 Duyên sắt cầm đừng lạt phai

17 Thiếp cũng nguyện cho chàng.

18 Nguyện cho chàng hai chữ bình an

2 Líu cống líu cống xê xang

3 Xừ xang xê hò líu cống xê xang hò

4 Liu xế xang xự xề xang lìu hò

5 Xừ liu xáng ũ liu cống xề

6 Liu xáng xàng xề liu xề xáng ú liu

7 Hò lìu xang xang xế cống

8 XÊ xê líu xừ, líu lĩu xừ xang

9 Xừ xang xế, líu xê xang xư’

10 XÊ líu xừ, líu lĩu xừ xang

11 Xừ, xê líu xừ, líu cống xê, líu hò

12 Liu xề xang xự cống xê xang lìu hò

14 XÊ líu xừ, líu lĩu xừ xang

15 Xừ xang xề hò líu cống xế xang hò

16 Lưu xáng xàng, xề liu xề xáng ú liu

18 XÊ líu xừ, líu lĩu xừ xang

19 Xừ xang xế, hò líu cống xê xang hò

20 Liu xáng xàng xề liu xề xáng ú liu

Hình Ảnh Viêm Họng Và Họng Bình Thường Chi Tiết Nhất

Cấu tạo vòm họng – Cấu tạo cổ họng người

Cấu tạo cổ họng giải phẫu: Vòm họng còn được gọi là họng mũi, thuộc lá thai trong đó có cấu trúc là hình hộp 6 mặt.

Mặt trước: Cửa mũi sau.

Hai bên mặt là loa vòi nhĩ cách đuôi cuốn mũi dưới khoảng 1 cm, xung quanh loa vòi có tổ chức bạch huyết gọi là amiđan Gerlach. Phía trên gờ vòi nhĩ hai bên có hố Rosenmuler.

Mặt trên là bờ dưới của thân xương bướm và mảnh nền của xương chẩm. Ở mặt này tổ chức bạch huyết tập trung thành đám gọi là amiđan Luschka. Khi tổ chức này quá phát được gọi là viêm V.A.

Mặt dưới thông với họng miệng

Mạch máu nuôi dưỡng: Là động mạch bướm khẩu cái, xuất phát từ động mạch hàm trong (là 1 trong 2 ngành cùng của động mạch cảnh ngoài).

Tổ chức học: Phần trên được cấu tạo bởi biểu mô trụ đơn có lông chuyển thuộc niêm mạc đường hô hấp. Phía dưới là lớp biểu mô lát tầng thuộc niêm mạc đường tiêu hoá.

Hình ảnh các loại viêm họng thường gặp

Hình ảnh họng bình thường

Hình ảnh viêm họng cấp

Viêm họng do virus sau khoảng 4 – 5 ngày là có thể tự khỏi.

Hình ảnh viêm họng đỏ

Bị viêm họng đỏ các mạc hầu có màu đỏ, bệnh thường xuất hiện khi thời tiết chuyển mùa, đặc biệt từ nóng sang lạnh. Viêm họng đỏ do virus gây ra nên tốc độ lây lan nhanh chóng.

Hình ảnh viêm họng do liên cầu

Bệnh viêm họng do liên cầu cần phải điều trị kịp thời tránh những biến chứng có thể xảy ra.

Hình ảnh viêm họng đỏ tím

Viêm họng đỏ tím thường gặp ở trẻ em, nguyên nhân do nhiễm trùng Streptocoque, nhiễm siêu vi hoặc vi trùng khác.

Nhận biết bệnh còn có thể dựa theo biểu hiện sốt cao 40 độ C, đau đầu, đau tai, đau bụng, buồn nôn, hơi thở có mùi hôi, chán ăn, lưỡi gà phù nề có nhiều chấm đỏ, niêm mạc họng đỏ rực, …. Viêm họng đỏ có thể gây ra biến chứng toàn thân do nhiễm Streptocoque, hoặc biến chứng viêm sưng tấy quanh amidan.

Hình ảnh viêm họng trắng

Hình ảnh viêm họng giả mạc

Viêm họng giả mạc chỉ chiếm khoảng 2 – 3% nhưng lại rất nguy hiểm vì đó có thể là viêm họng bạch hầu rất nặng.

Hình ảnh viêm họng với các mụn nước

Viêm họng hạt với các mụn nước do các siêu vi gây ra. Dấu hiệu của bệnh là hầu họng đỏ, phía trên có các mụn nước nhỏ kèm theo các triệu chứng sốt cao, đau đầu, cảm giác lạnh đột ngột, nuốt đau, cảm giác đau nhức đến tận tai.

Hình ảnh viêm họng mãn tính

Khi mắc viêm họng mãn tính người bệnh cảm thấy mệt mỏi, đau rát họng, vướng víu, khó nuốt, ho khan hoặc ho có đờm, không sốt.

Hình ảnh viêm họng hạt

Hình ảnh viêm họng loét hoại tử

Viêm họng loét hoại tử thường gặp ở cả trẻ em và người lớn sống ở tập thể. Dấu hiệu nhận biết bệnh giả mạc có màu trắng xám, sau phát triển thành vết loét rộng trên amidan một bên, vết loét được bao phủ bằng chất tiết màu vàng nhạt. Người bị bệnh thường mệt mỏi, hơi thở có mùi hôi thối kèm theo sốt nhẹ.

Qua hình ảnh viêm họng của từng loại giúp bạn có thể chẩn đoán được mình đang mắc viêm họng hay không. Để có kết luận chính xác nhất khi thấy cổ họng có dấu hiệu bất thường, bạn nên đi khám bác sỹ chuyên khoa. Không được dựa theo sự chẩn đoán của mình mà tự mua thuốc điều trị sẽ khiến bệnh khó chữa hơn và ảnh hưởng đến sức khỏe.

Khi được kết luận bệnh, bạn có thể lựa chọn điều trị bằng thuốc Tây hoặc các bài thuốc Nam dân gian. Từ lâu, thuốc kháng sinh đã được công nhận là cách điều trị viêm họng hiệu quả. Tuy nhiên do thói quen uống thuốc không điều độ, ngưng sử dụng khi chưa hết liệu trình khiến thuốc kháng sinh trở thành mối hiểm họa khi xảy ra trường hợp kháng hoặc nhờn thuốc.

Trái ngược với thuốc Tây y, phương pháp điều trị bằng Đông Y sử dụng các vị thuốc tự nhiênnên hoàn toàn không gây ra các tác dụng phụ, hiện tượng kháng thuốc. Trong đó, nổi bật nhất phải kể đến CAO BỔ PHẾ TÂM MINH ĐƯỜNG – bài thuốc TIÊN PHONG trong dòng sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên ĐẶC TRỊ viêm họng, viêm phế quản, ho.

Cao Bổ Phế Tâm Minh Đường được tin dùng bởi hàng trăm, hàng nghìn bệnh nhân khắp cả nước chính nhờ sự an toàn và hiệu quả của sản phẩm. Bài thuốc được điều chế từ 8 vị thảo dược thiên nhiên, trong đó nổi bật là TRẦN BÌ, TANG BẠCH BÌ, KINH GIỚI – 3 vị thuốc nổi tiếng dùng trong những bài thuốc chữa ho, viêm phổi,… được ghi rõ trong cuốn “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam”. Các cây thuốc sử dụng được lấy tại vùng trồng chuyên canh của Trung tâm Nghiên cứu Trồng & Chế biến cây thuốc Hà Nội, do Bộ Y tế quản lý.

Tác dụng của Cao Bổ Phế Tâm Minh Đường

Mỗi liệu trình thuốc dùng trong và thường chỉ sau 1 tuần là có thể cảm nhận được sự chuyển biến của bệnh. Nên điều trị từ 3-4 liệu trình để đẩy lùi hoàn toàn căn bệnh.

✅Làm dịu các cơn đau rát, ngứa họng khó chịu.

✅Tiêu đờm, khai thông phế quản bị tắc nghẽn.

✅Giảm sưng, viêm, phù nề ở phế quản.

✅Làm sạch khuẩn họng, phế quản, kiềm chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh.

✅Cung cấp cho cơ thể sức đề kháng, chống lại các tác nhân bên ngoài, dự phòng tái phát.

Cách pha Cao Bổ Phế Tâm Minh Đường

Như vậy, những hình ảnh viêm họng đã cho chúng ta thấy được đây là căn bệnh phức tạp ảnh hưởng nhiều đến cơ thể. MUA NGAY CAO BỔ PHẾ TÂM MINH ĐƯỜNG VỚI GIÁ 350.000Đ/ LIỆU TRÌNH để không bao giờ lo sợ viêm họng là nguyên nhân khiến sức khỏe của bạn bị giảm sút.