Top 13 # Xem Nhiều Nhất Cấu Tạo Hoa Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Comforttinhdauthom.com

Trình Bày Cấu Tạo Của Hoatrình Bày Cấu Tạo Của Hoa . Cấu Tạo Và Chức Năng Của Nhị Hoa Và Nhụy Hoa

Một bông hoa điển hình bao gồm bốn loại cấu trúc gắn vào đỉnh của một cuống ngắn. Mỗi loại cấu trúc này được sắp xếp thành vòng trên đế hoa. Bốn vòng chính tính từ gốc (móng) của hoa hay mấu thấp nhất và tính dần lên trên là:

Đài hoa: vòng ngoài cùng nhất, bao gồm các thành phần đơn vị gọi là lá đài; chúng thường có màu xanh và bao bọc phần còn lại của hoa khi ở trong nụ. Tuy nhiên, các lá đài này có thể không có hoặc dễ thấy và sặc sỡ nổi bật như các cánh hoa ở một số loài.

Tràng hoa: vòng kế tiếp tính về phía đỉnh, bao gồm các thành phần đơn vị gọi là cánh hoa, chúng thường mỏng, mềm và có màu sắc sặc sỡ để thu hút động vật giúp chúng thụ phấn.

Bộ nhị: vòng kế tiếp (đôi khi sắp xếp thành vài vòng), bao gồm các thành phần đơn vị gọi là nhị hoa. Nhị hoa bao gồm 2 phần: một cuống nhỏ gọi là chỉ nhị, trên đầu của chỉ nhị là bao phấn, trong đó sinh ra phấn hoa nhờ phân bào giảm nhiễm để cuối cùng phát tán đi.

Bộ nhụy: vòng trong cùng nhất của hoa, bao gồm một hay vài đơn vị thành phần gọi là lá noãn. Lá noãn hay các lá noãn hợp lại thành một cấu trúc rỗng, gọi là bầu nhụy, bên trong nó sinh sản ra các noãn. Noãn là các túi đại bào tử và tới lượt chúng, chúng sinh ra các đại bào tử nhờ phân bào giảm nhiễm để phát triển thành các thể giao tử cái. Chúng tạo ra các tế bào trứng. Bộ nhụy của hoa cũng được miêu tả bằng cách sử dụng một thuật ngữ thay thế là cấu trúc mà người ta nhìn thấy ở vòng trong cùng nhất (bao gồm một bầu nhụy, vòi nhụy và đầu nhụy), gọi là nhụy hoa. Một nhụy có thể bao gồm một lá noãn hay vài lá noãn hợp lại cùng nhau. Phần đỉnh dính của nhụy gọi là đầu nhụy, nơi tiếp nhận phấn hoa. Một cuống hỗ trợ nâng đỡ gọi là vòi nhụy, trở thành con đường cho các ống phấn phát triển từ các hạt phấn hoa bám vào đầu nhụy.

Cấu tạo và chức năng của nhị và nhụy hoa?

– Cấu tạo:

+ Nhị có nhiều hạt phấn mang tế bào sinh dục đực.

+ Nhụy có bầu chứa noãn mang tế bào sinh dục cái.

– Chức năng: Nhị và nhụy là cơ quan sinh sản chủ yếu của hoa.

Trình Bày Cấu Tạo Của Hoa

Một bông hoa điển hình bao gồm bốn loại cấu trúc gắn vào đỉnh của một cuống ngắn. Mỗi loại cấu trúc này được sắp xếp thành vòng trên đế hoa. Bốn vòng chính tính từ gốc (móng) của hoa hay mấu thấp nhất và tính dần lên trên là:

Đài hoa: vòng ngoài cùng nhất, bao gồm các thành phần đơn vị gọi là lá đài; chúng thường có màu xanh và bao bọc phần còn lại của hoa khi ở trong nụ. Tuy nhiên, các lá đài này có thể không có hoặc dễ thấy và sặc sỡ nổi bật như các cánh hoa ở một số loài.

Tràng hoa: vòng kế tiếp tính về phía đỉnh, bao gồm các thành phần đơn vị gọi là cánh hoa, chúng thường mỏng, mềm và có màu sắc sặc sỡ để thu hút động vật giúp chúng thụ phấn.

Bộ nhị: vòng kế tiếp (đôi khi sắp xếp thành vài vòng), bao gồm các thành phần đơn vị gọi là nhị hoa. Nhị hoa bao gồm 2 phần: một cuống nhỏ gọi là chỉ nhị, trên đầu của chỉ nhị là bao phấn, trong đó sinh ra phấn hoa nhờ phân bào giảm nhiễm để cuối cùng phát tán đi.

Bộ nhụy: vòng trong cùng nhất của hoa, bao gồm một hay vài đơn vị thành phần gọi là lá noãn. Lá noãn hay các lá noãn hợp lại thành một cấu trúc rỗng, gọi là bầu nhụy, bên trong nó sinh sản ra các noãn. Noãn là các túi đại bào tử và tới lượt chúng, chúng sinh ra các đại bào tử nhờ phân bào giảm nhiễm để phát triển thành các thể giao tử cái. Chúng tạo ra các tế bào trứng. Bộ nhụy của hoa cũng được miêu tả bằng cách sử dụng một thuật ngữ thay thế là cấu trúc mà người ta nhìn thấy ở vòng trong cùng nhất (bao gồm một bầu nhụy, vòi nhụy và đầu nhụy), gọi là nhụy hoa. Một nhụy có thể bao gồm một lá noãn hay vài lá noãn hợp lại cùng nhau. Phần đỉnh dính của nhụy gọi là đầu nhụy, nơi tiếp nhận phấn hoa. Một cuống hỗ trợ nâng đỡ gọi là vòi nhụy, trở thành con đường cho các ống phấn phát triển từ các hạt phấn hoa bám vào đầu nhụy.

Cấu tạo và chức năng của nhị và nhụy hoa?

– Cấu tạo:

+ Nhị có nhiều hạt phấn mang tế bào sinh dục đực.

+ Nhụy có bầu chứa noãn mang tế bào sinh dục cái.

– Chức năng: Nhị và nhụy là cơ quan sinh sản chủ yếu của hoa.

Cấu Tạo Các Thành Phần Của Hoa

Cấu tạo các thành phần của hoa 1.2.1. Đế hoa Đế hoa là phần đầu tận cùng của cuống hoa, thường phình to ra mang bao hoa và các bộ phận sinh sản. Ở những dạng nguyên thủy, đế hoa thường dài và có dạng hình nón (hoa Ngọc lan ta, Dạ hợp). Trong quá trình phát triển của thực vật, đế hoa có xu hướng thu ngắn lại, trở thành đế phẳng, hoặc có khi lõm lại thành hình chén (Hoa hồng). Có trường hợp đế hoa phát triển thành một bộ phận riêng mang nhụy gọi là cột nhụy (hoa Ngọc lan) hoặc mang cả nhị và nhụy, gọi là cột nhị – nhụy (hoa Lạc tiên, Dâm bụt). Ngoài ra, đế hoa có thể mang một bộ phận dày và nạc gọi là đĩa mật, bao gồm các tuyến mật tập trung lại. Sự có mặt của đĩa mật là một biểu hiện cho sự thích nghi với lối thụ phấn nhờ sâu bọ của một số loài hoa. 1.2.2. Đài hoa (Kalyx – K) Là bộ phận ngoài cùng của hoa và làm nhiệm vụ che chở, các lá đài thường có màu lục, hình dạng giống lá, đôi khi có dạng tam giác, dạng sợi, dạng vảy… và màu sắc tương đối phong phú. Trong một số trường hợp đài có màu sắc giống với cánh hoa. Các lá đài có thể tách rời nhau, gọi là đài phân (hoa Cải, Phượng vĩ…) có thể dính lại Hình 4.1. Sơ đồ cắt dọc của hoa lưỡng tính 1. Đế hoa; 2. Vết gắn các bộ phận bao hoa; 3. Đài hoa; 4. Tràng hoa; 5. Chỉ nhị; 6. Bao phấn; 7. Bộ nhị; 8. Bầu; 9. Vòi nhuỵ; 10. Núm nhuỵ; 11. Bộ nhuỵ (Nguồn: T. Elliot Weier, C. Ralph Stocking, 1982) 90 với nhau, gọi là đài hợp (hoa Rau muống, Dâm bụt), trong trường hợp đó phần dính lại làm thành ống đài, phần trên gọi là thùy của đài, ống đài có thể dài hoặc ngắn và khác nhau tùy loài… Số lượng các lá đài ở trong hoa có thể thay đổi thường là 3 (hoa của thực vật 1 lá mầm); hoặc là 4, 5 (hoa của thực vật 2 lá mầm). Đài hoa có thể rụng trước khi hoa nở (hoa Thuốc phiện), hoặc cùng tồn tại và phát triển với hoa và quả (hoa các cây họ Cà…). Ở một số cây, ngoài vòng đài chính còn có vòng đài phụ (họ Bông…) Về nguồn gốc các đài phụ có thể do các lá kèm của đài biến đổi thành (Hoa hồng) hoặc do các lá bắc con biến đổi thành (các cây trong họ Bông). Đài hoa có thể có những biến đổi đặc biệt: có thể biến đổi thành lông (các cây họ Cúc) hoặc phát triển thành cánh của quả (cây Chò, cây Sao…) để làm bộ phận phát tán quả. Về hình dạng và cấu tạo giải phẫu, đài là bộ phận ít chyên hóa nhất của hoa và gần với lá dinh dưỡng nhất. Nhu mô đồng hóa của các lá đài thường có cấu tạo đồng nhất không phân biệt thành nhu mô giậu và mô xốp, chúng có chức năng bảo vệ hoa và duy trì chức năng quang hợp vì có chứa sẵn lạp lục, số lượng các bó dẫn của đài thường bằng số lượng bó dẫn trong lá dinh dưỡng. 1.2.3. Tràng hoa (Corolla – C) Tràng hoa là bộ phận phía trong của đài, thường có màu sắc sặc sỡ và có hương thơm để hấp dẫn sâu bọ giúp cho sự thụ phấn. Tràng hoa thường gồm những mảnh có màu gọi là cánh hoa (cánh tràng). Màu sắc của cánh hoa có thể do các chất antoxyan hoà tan trong dịch tế bào, hoặc do các chất màu chứa trong các lạp màu. Cánh hoa trong một số trường hợp có thể có hương thơm do biểu bì tiết ra các chất dầu thơm (hoa Hồng, Nhài, Ngọc lan, Bưởi…). Số lượng các cánh hoa ở các họ thực vật ở mức tiến hoá thấp, thường nhiều và không cố định. Nhưng ở các họ thực vật ở mức tiến hoá cao hơn, số lượng cánh hoa đã giảm xuống và thường là 4,5 hay bội số của 4,5 (hoa cây thực vật 2 lá mầm) hoặc 3 hay bội số của 3 (hoa cây thực vật 1 lá mầm). Số lượng cánh hoa thường tương ứng với là đài, từ đó ta có các khái niệm về hoa mẫu 3, mẫu 4, mẫu 5. Hình 4.2. Một số kiểu đài hoa 1,2. Đài hợp hình ống; 3. Đài phụ và đài chính đều, hợp; 3. Đài hình môi; 5. Đài biến đổi thành lông; 6. Đài đồng trưởng; 7. Đài rời, đều. (Nguồn: Denis Bach, 1945) 91 Về kích thước, các cánh tràng thường có kích thước lớn hơn đài hoa. Mỗi cánh hoa thường gồm một phiến rộng ở phía trên, gọi là phiến và một phần thu hẹp ở dưới gọi là móng (hoa Phượng vĩ). Các cánh hoa có thể tách rời nhau (cánh phân); hoặc dính nhau (cánh hợp) tạo thành ống tràng ở phía dưới và phía trên rời nhau gọi là các thùy tràng, thùy tràng có số lượng tương ứng với số mảnh cánh hoa đã dính lại. Tùy theo mức độ và các kiểu dính nhau tràng hợp có thể hình ống (hoa cây họ Cúc), hình phễu (hoa Rau muống, Bìm bìm), hình đinh (hoa Trang), hình bánh xe (hoa các cây họ Cà), hình môi (các cây họ Hoa môi); hình thìa lìa (các cây họ Cúc)… Đài và tràng kết hợp với nhau tạo thành bao hoa (perigonium – P), thường bao hoa có thể phân hóa thành đài và tràng rõ rệt, nhưng trong một số trường hợp chưa phân hóa rõ, các bộ phận của bao hoa đều giống lá đài (hoa Dừa) và các bộ phận của bao hoa giống với cánh tràng (hoa Huệ…). Khi hoa nở, các cánh hoa rời cũng như các thùy tràng (trong trường hợp hoa cánh hợp) có thể giống nhau về hình dạng và kích thước (hoa đều) cũng có thể khác nhau (hoa không đều). Trong một số trường hợp, các cánh hoa có thể mang các phần phụ hình vảy hoặc hình sợi (hoa Trúc đào, hoa Lạc tiên…) những phần phụ này có thể phát triển thành một tràng phụ (hoa Thiên lý, hoa Náng trắng…). Đôi khi các cánh hoa lai kéo dài thành một cái cựa, có thể chứa tuyến mật (hoa Phong lan). Về mặt cấu tạo giải phẫu, các cánh hoa thường mỏng hơn lá đài thường gồm 3 hoặc 4 lớp tế bào, đôi khi chỉ gồm 2 lớp biểu bì trên và dưới, giữa 2 lớp biểu bì là các tế bào không chứa diệp lục, giữa các tế bào có các khoảng gian bào. Các cánh hoa thường chỉ có một bó mạch. Hình 4.3. Các kiểu tràng hoa rời 1.Tràng hình hoa hồng; 2. Tràng hình hoa cẩm chướng; 3A.B. Tràng hình chữ thập; 4. A.B. Tràng hình bướm; 5. Tràng hình hoa lan. (Nguồn: Denis Bach, 1945) 92 1.2.4. Nhị hoa (Androeceum – A) Nhị hoa là cơ quan sinh sản đực của hoa, tập hợp các nhị ở trong hoa hình thành nên bộ nhị. Số lượng nhị trong bộ nhị có thể thay đổi: từ rất nhiều trong các họ thấp (Ngọc lan, Sen, Súng, Hoa hồng), giảm đi và cố định ở các họ tiến hoá hơn, số lượng các nhị thường là 4,5 hoặc bội số của 4,5 (thường gặp ở các cây thực vật 2 lá mầm) và 3 hoặc bội số của 3 (Thường gặp ở các cây thực vật 1 lá mầm) cũng có khi giảm xuống chỉ còn 1 (họ Gừng) hoặc 1/2 (họ Hoàng tinh). Nhị hoa trong trường hợp điển hình thường gồm 2 phần chính: Chỉ nhị và bao phấn, bao phần thường gồm hai ô phấn (nửa bao phấn) ngăn cách với nhau bởi trung đới. Những nhị có chỉ nhị loe rộng hoặc hình bản có thể có nhiều bó dẫn hơn (3 – 5 hoặc 7 bó). Hình 4.5. Cấu tạo một nhị hoa chúng tôi phấn; 2. Chỉ nhị A. Bao phấn đính gốc B. Bao phấn đính lưng a. Chỉ nhị: Thường đính trên đế hoa, hoặc có khi đính trên tràng (thường gặp ở những hoa có cánh hợp), chỉ nhị có thể dài hoặc ngắn, trong một số trường hợp chỉ nhị rất ngắn khiến cho bao phấn gần như đính trực tiếp trên đế hoa. Chỉ nhị có thể đơn hoặc phân nhánh, trên mặt cắt ngang chỉ nhị có hình tròn hoặc trái xoan, hoặc đôi khi có dạng bản dẹp như lá. Cấu tạo của chỉ nhị rất đơn giản: phía ngoài có biểu bì bao bọc, dưới biểu bì thường có 2 – 3 lớp tế bào mô mềm, màng mỏng. Một bó dẫn duy nhất nhất nằm ở giữa, trong đó libe phát triển kém hơn,sau đó bó dẫn tiếp tục chạy và trung đới, đôi khi ở đó nó được phân nhánh ra b. Trung đới Là phần kéo dài của chỉ nhị vào trong bao phấn, nó ngăn cách giữa 2 nửa bao phấn. Đôi khi trung đới có thể kéo dài vượt quá bao phấn tạo thành một mào lông (như ở hoa Trúc đào) hoặc thành một tuyến (gạo sen ở hoa Sen). c. Bao phấn Bao phấn có nhiều hình dạng khác nhau: hình tròn, hình thận, hình thuôn dài, hình mũi tên… Mỗi bao phấn thường gồm 2 (hoặc1) nửa bao phấn (ô phấn). Mỗi nửa bao phấn khi còn non thường gồm 2 túi phấn bên trong chứa hạt phấn nhưng khi chín, 2 túi phấn đó thường thông với nhau thành một. Như vậy, túi phấn tương đương với túi bào tử nhỏ ở thực vật hạt trần. Khi bao phấn chín, thường nứt theo nhiều kiểu khác nhau: kiểu nứt dọc (phổ biến ở nhiều cây) hoặc mở ra bằng lỗ ở đỉnh (một số cây trong họ Cà) hoặc mở bằng các mảnh van như lưỡi gà (các cây trong họ Long não). Trong trường hợp bao phấn nứt dọc, kẽ nứt có thể quay vào phía trong, đó là bao phấn hướng trong, kẽ nứt quay ra phía ngoài gọi là bao phấn hướng ngoài. Bao phấn được đính vào chỉ nhị theo nhiều kiểu khác nhau: bao phấn đính gốc – bao phấn thường nằm trên đỉnh của chỉ nhị; bao phấn đính lưng – bao phấn đính vào chỉ nhị ở một điểm của trung đới và phần lưng của bao phấn nằm trên đỉnh của chỉ nhị. + Cấu tạo của bao phấn và hạt phấn Hình 4.6. Một số kiểu nứt của bao phấn 1,2. Nứt dọc; 3-6. Các kiểu nứt lỗ; 7,9. Nứt lưỡi gà (Nứt van); 8. Nứt ngang. 94 Bao phấn: màng bao phấn gồm nhiều lớp tế bào bao lấy các nửa bao phấn (ô phấn); lớp ngoài cùng của bao phấn là các tế bào biểu bì – đó là những tế bào nhỏ, dẹp. Dưới biểu bì là những tế bào vòng cơ, gồm những tế bào có màng dày hóa gỗ hình chữ V, còn mặt ngoài vẫn bằng cellulose, các tế bào này giúp cho việc mở bao phấn. Lớp trong cùng của vách bao phấn là tầng nuôi dưỡng, tầng này nằm sát ngay ô phấn và tham gia vào việc nuôi dưỡng tế bào mẹ hạt phấn cũng như hạt phấn sau này, các tế bào của tầng nuôi dưỡng có kích thước tương đối lớn, màng mỏng và rất giàu chất tế bào. Hạt phấn: hạt phấn được hình thành từ các tế bào mẹ hạt phấn (nguyên bào tử). Mỗi tế bào mẹ hạt phấn, bằng hình thức phân chia giảm nhiễm cho ra 4 bào tử, tức 4 hạt phấn đơn bội. Hạt phấn thường có dạng hình cầu, kích thước vào khoảng 10 – 15 m, thường có màu vàng nhạt. Về mặt cấu tạo, hạt phấn thường có 2 lớp màng, lớp màng ngoài dày, bằng cutin, trên bề mặt có những khe rãnh lỗ gọi là lỗ nảy mầm, số lượng rãnh và lỗ thay đổi khác nhau tùy từng loài, ở một số cây thuộc họ Cúc, họ Bông mặt ngoài thường có những gai nhỏ; lớp màng trong của hạt phấn thường mỏng hơn và bằng pectin, thường dày lên trước các lỗ nảy mầm. Bên trong hạt phấn là 2 tế bào: tế bào dinh dưỡng lớn – về sau sẽ phát triển thành ống phấn, tế bào nhỏ hơn là tế bào phát sinh sau sẽ cho ra 2 tinh tử, hạt phấn ở giai giai đoạn phát triển thành 2 tế bào như vậy tương ứng với thể giao tử đực.

Cấu Tạo Và Phân Loại Nước Hoa

Những mùi hương cơ bản

– Mùi hoa

– Mùi trái cây

– Mùi lá cỏ

– Mùi dược thảo ( rút ra từ các vị thuốc bắc)

– Mùi gỗ

– Mùi nhựa cây

– Mùi hơi người

– Mùi xạ hương (rút từ hạch thuộc bộ phận sinh dục loài thú)

– Hương liệu (gồm nhựa thông và gia vị)

Cấu trúc phân tử của mùi hương

– Aldehydic: nhờn nhưng làm tỏa các mùi khác

– Lactonic: sệt và có mùi trái chín

– Phenolic: mùi khét của nhựa.

Có khoảng 1000-1200 loài hoa khác nhau và được cất ra tinh dầu; Vỏ, rễ, quả, nhựa và lá cây đều có thể làm được nước hoa nhưng phổ biến nhất là cam và chanh. Ngoài ra một số thành phần khác như: Cassi, Gạo Basmati, Đàn Hương. Hoắc Hương, Hổ Phách, Xạ hương, Lá cây Thường Xuân, Hạt Hồi, Rễ Huệ Tím, Cỏ Thần, Đậu Tonka, Vani, Nhựa Thơm, Hoa cam thảo, Cánh kiến trắng, … tạo cho mỗi loại nước hoa những mùi đặc trưng quyến rũ: nồng nàn, nhẹ nhàng, bí ẩn, gợi cảm, lãng mạn hay sang trọng..

Sau đó, chúng được kết hợp với các chất gây bay mùi mà thành phần là dung dịch cồn, trong ấy lượng cồn chiếm đáng kể (thường là cồn 700) bôi một ít nước hoa trên da, ta thấy mát lạnh, là do cồn bốc hơi thu lấy nhiệt. Trong nước hoa còn có chất tạo màu đặc biệt còn có chất có mùi thơm và giữ mùi được lâu gọi là chất định hương.

Chất định hương chiếm vị trí vô cùng quan trọng để cố định hương cho thành phần hỗn hợp nước hoa giữ mùi được lâu. Thường sử dụng nhất là xạ hương, long duyên hương. Xạ hương được lấy từ túi xạ là tuyến nằm cạnh cơ quan sinh dục đực của hươu xạ. Xạ hương có mùi rất bền và thuộc loại hương liệu cao cấp.

Còn long duyên hương (còn gọi long diên hương) là sản phẩm tiêu hóa có trong ruột của một loài cá voi được bài tiết nổi trên mặt biển và được vớt lên để chế biến.

Chính vì hai chất định hương này khó tìm , nên chúng rất quý hiếm và do đó vì sao nước hoa thật lại có giá trị rất cao!

Phân loại các loại nước hoa

Sự khác biệt đơn giản để phân biệt các loại nước hoa nằm ở chỗ chúng khác nhau về tỉ lệ thành phần tinh dầu, lượng tinh dầu càng cao thì thời gian lưu giữ mùi hương càng dài. Một trong những nguyên nhân là do loại da mà bạn sở hữu. Những người có da khô thường thấy nước hoa bay hương nhanh hơn những người da dầu bởi da dầu có khả năng lưu hương thơm lâu hơn. Độ pH của da khác nhau theo từng người và cũng có ảnh hưởng đến mùi nước hoa, quyết định phản ứng của các thành phần trong nước hoa với da.

Perfume extract (hay Extrait de parfum): đậm đặc nhất, có tỉ lệ tinh dầu 22 – 40%. Loại nước hoa hiếm nhất vì nồng độ tinh dầu rất cao, đồng nghĩa với việc mùi hương rất nồng và bền, thường giữ mùi được lâu nhất (từ 6 – 8h), tuy nhiên ít được phổ biến vì giá thành tương đối cao và cũng không phù hợp lắm với khí hậu nóng.

Eau de Parfum: 12 – 20%. Thời gian lưu hương đứng thứ nhì sau Extrait de Parfum (từ 4 – 5h), thích hợp với những hoạt động ngoài trời – mùi hương của Eau de Parfum có thể hơi nồng khi được sử dụng trong nhà hoặc trong không gian chật hẹp, đông người. Khi sử dụng Eau de Parfum, một người đứng cách bạn trong một khoảng cánh tay có thể cảm nhận được mùi hương của bạn. Chủ yếu dành cho phái nữ, với nồng độ tinh dầu cao, nồng nàn và bền mùi. Là dạng nước hoa phổ biến hiện nay, sử dụng hợp với những vùng khí hậu khô, hay mùa lạnh.

Eau de Parfum còn được gọi với những tên khác: Parfum de Toilette, Eau de Perfume hay Millesime.

Eau de Toilette: 5 – 12%. được nhiều người ưa chuộng vì giá cả hợp lý. Thời gian lưu hương hơn 3 tiếng. Loại nước hoa phổ biến nhất và được nhiều người ưa chuộng hiện nay trên thế giới, với giá cả phải chăng và chất lượng mùi hương trung bình. Đa dạng về mẫu mã, chủng loại hay nhà sản xuất. Đây là loại nước hoa với mùi nhẹ nhàng, khá bền mùi, và được dành cho cả nam và nữ.

Eau de Cologne: “Original Eau de Cologne” ra đời lần đầu tiên ở thành phố Colognev – Đức, sau đó lan rộng ra toàn thế giới. Chỉ có tỉ lệ tinh dầu trong khoảng 2 – 4%. Đây là một phiên bản yếu mùi khác, thành phần tinh dầu chỉ vào từ 2-5% (2 – 3h). Không được nhiều quý mệnh phụ ưa chuộng vì mùi nhẹ nhưng không vì thế mà ế ẩm, bởi vẫn có nhiều người tự tin vào mùi hương tự nhiên của cơ thể và chỉ cần một chút gì thoang thoảng thêm làm nền.. Mùi nhẹ, khả năng giữ mùi kém, phù hợp với túi tiền “bình dân”.

Eau Fraiche hay Splash Cologne: là loại loãng nhất hiện nay chỉ có 1-3% tinh dầu. Nồng độ tinh dầu rất thấp do đó thời gian lưu hương khoảng 2h. Loại này dành riêng cho những ai chuộng sự tinh tế và thanh nhã.

Lớp hương của nước hoa

Thành phần của bất cứ loại nước hoa nào cũng được chia làm 3 lớp, và mỗi lớp được gọi bằng tên chuyên ngành là “note”: Top (đỉnh), Middle (giữa) và Base (nền). Top note là mùi hương bạn ngửi thấy ngay khi sau khi xức và phần nhiều là alcohol. Phần body được xem là middle note, và là trái tim của nước hoa. Còn base note chính là phần tạo nên mùi hương độc đáo duy nhất cho loại nước hoa bạn đang sở hữu.

*Nốt hương đầu (top notes, head notes): mùi hương bật ra ngay lập tức (vài giây sau khi xịt), tạo ấn tượng quan trọng đầu tiên cho người sử dụng. Chứa những mùi nhẹ, dễ bay hơi, và nhanh phai mùi như mùi hoa, trái cây. Lớp này lưu mùi trong khoảng 10 phút sau khi xịt. Các mùi hương tìm thấy ở lớp này bao gồm greens, citrus, powdery undertones, và delicate florals.

*Nốt hương giữa (middle notes, heart notes): Khoảng 10-20 phút sau khi bạn bắt đầu xức cho đến 1 tiếng rưỡi, mùi hương của lớp giữa này bắt đầu lên tiếng (sau khi nốt hương đầu tiêu tán), tạo mùi hương chính và đặc trưng của nước hoa nên lưu mùi khá lâu. Đây là khi mùi hương đã nhẹ trút bỏ lớp mùi sắc sảo ban đầu và trở nên dịu ngọt hơn, tạo nên ấn tượng đậm nhất. Đó cũng là lý do vì sao chúng ta coi lớp giữa này như “Trái tim” của nước hoa, và khi mùi hương của lớp này xuất hiện thì sự hiện diện của chất cồn gần như đã bay hơi mất tăm. Lớp giữa này chứa nhiều hương hoa cỏ (rich florals) và gia vị.

*Nốt hương cuối (base note): Nốt hương cuối kết hợp với nốt hương giữa trở thành mùi hương chính của lọ nước hoa. Nốt hương cuối đem lại cảm giác trầm lắng và đậm đặc, lưu mùi rất lâu và mạnh, thường chứa mùi của gỗ, xạ hương và nhựa thông.. Sau 1 tiếng rưỡi cho đến 2 tiếng thì mùi hương bạn “nghe” được lúc này là “giọng” của lớp nền. Đây là lớp chịu trách nhiệm đưa ra mùi hương đặc trưng sau khi đã hòa quyện cùng các phân tử mùi khác có trên da của bạn và cùng sự kết hợp với lớp “Trái tim”, từ bạn sẽ tỏa ra mùi hương ngất ngây tinh tế. Vì thế không có gì lạ nếu lớp này thường sâu hơn và giàu hơn so với mùi hương ban đầu.

Nốt hương đầu và giữa chịu ảnh hưởng của nốt hương cuối. Cũng như vậy, mùi hương của nốt cuối có thể bị bẻ cong khi kết hợp với nốt hương giữa. Các nhà sản xuất thường ghi chú những nguyên liệu họ sử dụng trong các nốt hương cũng như thời gian lưu hương theo từng bậc (ở điều kiện chuẩn thí nghiệm của họ).

Các phân tử mùi nhờ vào lớp này để gắn kết với nhau và đem lại độ tuyệt hảo cũng như uy lực ma thuật của nước hoa. Warm woods và các loại thuốc hãm (fixative) như tuyết tùng (cedarwood), đàn hương (sandalwood) và vanilla thường được tìm thấy ở lớp cuối này.

Ví dụ về nốt hương:

CHANEL COCO MADEMOISELLE Eau de Parfum

Top Notes: Bergamot Orange, Mandarin, Tunisian curacao.

Middle Notes: Morning Rose, Italian Jasmine, Ylang-Ylang, Mimosa, Florentine Iris.

Base Notes: Indonesian Patchouli, Haitien Vetiver, Bourbon Vanilla, White Musk, Opoponax, Tonka Bean.

Làm sao để nước hoa lưu hương lâu hơn?

Nước hoa lưu lâu hơn trên da ẩm. Do vậy, đối với những người da khô bạn nên xức nước hoa sau khi tắm, dùng phấn hoặc kem dưỡng ẩm trước rồi cuối cùng hãy xức nước hoa.

Thay vì chỉ xức nước hoa vào tay, hãy để cho nước hoa lan toả khắp cơ thể bằng cách xịt ở cổ tay, phía mặt đối diện của khuỷu tay, sau gáy, sau tai và nếu xịt một chút lên tóc có thể giúp lưu hương thơm cả ngày.

Theo internet