Top 10 # Xem Nhiều Nhất Các Thành Phần Cấu Tạo Của Hệ Thần Kinh Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Comforttinhdauthom.com

Cấu Tạo Các Thành Phần Của Hoa

Cấu tạo các thành phần của hoa 1.2.1. Đế hoa Đế hoa là phần đầu tận cùng của cuống hoa, thường phình to ra mang bao hoa và các bộ phận sinh sản. Ở những dạng nguyên thủy, đế hoa thường dài và có dạng hình nón (hoa Ngọc lan ta, Dạ hợp). Trong quá trình phát triển của thực vật, đế hoa có xu hướng thu ngắn lại, trở thành đế phẳng, hoặc có khi lõm lại thành hình chén (Hoa hồng). Có trường hợp đế hoa phát triển thành một bộ phận riêng mang nhụy gọi là cột nhụy (hoa Ngọc lan) hoặc mang cả nhị và nhụy, gọi là cột nhị – nhụy (hoa Lạc tiên, Dâm bụt). Ngoài ra, đế hoa có thể mang một bộ phận dày và nạc gọi là đĩa mật, bao gồm các tuyến mật tập trung lại. Sự có mặt của đĩa mật là một biểu hiện cho sự thích nghi với lối thụ phấn nhờ sâu bọ của một số loài hoa. 1.2.2. Đài hoa (Kalyx – K) Là bộ phận ngoài cùng của hoa và làm nhiệm vụ che chở, các lá đài thường có màu lục, hình dạng giống lá, đôi khi có dạng tam giác, dạng sợi, dạng vảy… và màu sắc tương đối phong phú. Trong một số trường hợp đài có màu sắc giống với cánh hoa. Các lá đài có thể tách rời nhau, gọi là đài phân (hoa Cải, Phượng vĩ…) có thể dính lại Hình 4.1. Sơ đồ cắt dọc của hoa lưỡng tính 1. Đế hoa; 2. Vết gắn các bộ phận bao hoa; 3. Đài hoa; 4. Tràng hoa; 5. Chỉ nhị; 6. Bao phấn; 7. Bộ nhị; 8. Bầu; 9. Vòi nhuỵ; 10. Núm nhuỵ; 11. Bộ nhuỵ (Nguồn: T. Elliot Weier, C. Ralph Stocking, 1982) 90 với nhau, gọi là đài hợp (hoa Rau muống, Dâm bụt), trong trường hợp đó phần dính lại làm thành ống đài, phần trên gọi là thùy của đài, ống đài có thể dài hoặc ngắn và khác nhau tùy loài… Số lượng các lá đài ở trong hoa có thể thay đổi thường là 3 (hoa của thực vật 1 lá mầm); hoặc là 4, 5 (hoa của thực vật 2 lá mầm). Đài hoa có thể rụng trước khi hoa nở (hoa Thuốc phiện), hoặc cùng tồn tại và phát triển với hoa và quả (hoa các cây họ Cà…). Ở một số cây, ngoài vòng đài chính còn có vòng đài phụ (họ Bông…) Về nguồn gốc các đài phụ có thể do các lá kèm của đài biến đổi thành (Hoa hồng) hoặc do các lá bắc con biến đổi thành (các cây trong họ Bông). Đài hoa có thể có những biến đổi đặc biệt: có thể biến đổi thành lông (các cây họ Cúc) hoặc phát triển thành cánh của quả (cây Chò, cây Sao…) để làm bộ phận phát tán quả. Về hình dạng và cấu tạo giải phẫu, đài là bộ phận ít chyên hóa nhất của hoa và gần với lá dinh dưỡng nhất. Nhu mô đồng hóa của các lá đài thường có cấu tạo đồng nhất không phân biệt thành nhu mô giậu và mô xốp, chúng có chức năng bảo vệ hoa và duy trì chức năng quang hợp vì có chứa sẵn lạp lục, số lượng các bó dẫn của đài thường bằng số lượng bó dẫn trong lá dinh dưỡng. 1.2.3. Tràng hoa (Corolla – C) Tràng hoa là bộ phận phía trong của đài, thường có màu sắc sặc sỡ và có hương thơm để hấp dẫn sâu bọ giúp cho sự thụ phấn. Tràng hoa thường gồm những mảnh có màu gọi là cánh hoa (cánh tràng). Màu sắc của cánh hoa có thể do các chất antoxyan hoà tan trong dịch tế bào, hoặc do các chất màu chứa trong các lạp màu. Cánh hoa trong một số trường hợp có thể có hương thơm do biểu bì tiết ra các chất dầu thơm (hoa Hồng, Nhài, Ngọc lan, Bưởi…). Số lượng các cánh hoa ở các họ thực vật ở mức tiến hoá thấp, thường nhiều và không cố định. Nhưng ở các họ thực vật ở mức tiến hoá cao hơn, số lượng cánh hoa đã giảm xuống và thường là 4,5 hay bội số của 4,5 (hoa cây thực vật 2 lá mầm) hoặc 3 hay bội số của 3 (hoa cây thực vật 1 lá mầm). Số lượng cánh hoa thường tương ứng với là đài, từ đó ta có các khái niệm về hoa mẫu 3, mẫu 4, mẫu 5. Hình 4.2. Một số kiểu đài hoa 1,2. Đài hợp hình ống; 3. Đài phụ và đài chính đều, hợp; 3. Đài hình môi; 5. Đài biến đổi thành lông; 6. Đài đồng trưởng; 7. Đài rời, đều. (Nguồn: Denis Bach, 1945) 91 Về kích thước, các cánh tràng thường có kích thước lớn hơn đài hoa. Mỗi cánh hoa thường gồm một phiến rộng ở phía trên, gọi là phiến và một phần thu hẹp ở dưới gọi là móng (hoa Phượng vĩ). Các cánh hoa có thể tách rời nhau (cánh phân); hoặc dính nhau (cánh hợp) tạo thành ống tràng ở phía dưới và phía trên rời nhau gọi là các thùy tràng, thùy tràng có số lượng tương ứng với số mảnh cánh hoa đã dính lại. Tùy theo mức độ và các kiểu dính nhau tràng hợp có thể hình ống (hoa cây họ Cúc), hình phễu (hoa Rau muống, Bìm bìm), hình đinh (hoa Trang), hình bánh xe (hoa các cây họ Cà), hình môi (các cây họ Hoa môi); hình thìa lìa (các cây họ Cúc)… Đài và tràng kết hợp với nhau tạo thành bao hoa (perigonium – P), thường bao hoa có thể phân hóa thành đài và tràng rõ rệt, nhưng trong một số trường hợp chưa phân hóa rõ, các bộ phận của bao hoa đều giống lá đài (hoa Dừa) và các bộ phận của bao hoa giống với cánh tràng (hoa Huệ…). Khi hoa nở, các cánh hoa rời cũng như các thùy tràng (trong trường hợp hoa cánh hợp) có thể giống nhau về hình dạng và kích thước (hoa đều) cũng có thể khác nhau (hoa không đều). Trong một số trường hợp, các cánh hoa có thể mang các phần phụ hình vảy hoặc hình sợi (hoa Trúc đào, hoa Lạc tiên…) những phần phụ này có thể phát triển thành một tràng phụ (hoa Thiên lý, hoa Náng trắng…). Đôi khi các cánh hoa lai kéo dài thành một cái cựa, có thể chứa tuyến mật (hoa Phong lan). Về mặt cấu tạo giải phẫu, các cánh hoa thường mỏng hơn lá đài thường gồm 3 hoặc 4 lớp tế bào, đôi khi chỉ gồm 2 lớp biểu bì trên và dưới, giữa 2 lớp biểu bì là các tế bào không chứa diệp lục, giữa các tế bào có các khoảng gian bào. Các cánh hoa thường chỉ có một bó mạch. Hình 4.3. Các kiểu tràng hoa rời 1.Tràng hình hoa hồng; 2. Tràng hình hoa cẩm chướng; 3A.B. Tràng hình chữ thập; 4. A.B. Tràng hình bướm; 5. Tràng hình hoa lan. (Nguồn: Denis Bach, 1945) 92 1.2.4. Nhị hoa (Androeceum – A) Nhị hoa là cơ quan sinh sản đực của hoa, tập hợp các nhị ở trong hoa hình thành nên bộ nhị. Số lượng nhị trong bộ nhị có thể thay đổi: từ rất nhiều trong các họ thấp (Ngọc lan, Sen, Súng, Hoa hồng), giảm đi và cố định ở các họ tiến hoá hơn, số lượng các nhị thường là 4,5 hoặc bội số của 4,5 (thường gặp ở các cây thực vật 2 lá mầm) và 3 hoặc bội số của 3 (Thường gặp ở các cây thực vật 1 lá mầm) cũng có khi giảm xuống chỉ còn 1 (họ Gừng) hoặc 1/2 (họ Hoàng tinh). Nhị hoa trong trường hợp điển hình thường gồm 2 phần chính: Chỉ nhị và bao phấn, bao phần thường gồm hai ô phấn (nửa bao phấn) ngăn cách với nhau bởi trung đới. Những nhị có chỉ nhị loe rộng hoặc hình bản có thể có nhiều bó dẫn hơn (3 – 5 hoặc 7 bó). Hình 4.5. Cấu tạo một nhị hoa chúng tôi phấn; 2. Chỉ nhị A. Bao phấn đính gốc B. Bao phấn đính lưng a. Chỉ nhị: Thường đính trên đế hoa, hoặc có khi đính trên tràng (thường gặp ở những hoa có cánh hợp), chỉ nhị có thể dài hoặc ngắn, trong một số trường hợp chỉ nhị rất ngắn khiến cho bao phấn gần như đính trực tiếp trên đế hoa. Chỉ nhị có thể đơn hoặc phân nhánh, trên mặt cắt ngang chỉ nhị có hình tròn hoặc trái xoan, hoặc đôi khi có dạng bản dẹp như lá. Cấu tạo của chỉ nhị rất đơn giản: phía ngoài có biểu bì bao bọc, dưới biểu bì thường có 2 – 3 lớp tế bào mô mềm, màng mỏng. Một bó dẫn duy nhất nhất nằm ở giữa, trong đó libe phát triển kém hơn,sau đó bó dẫn tiếp tục chạy và trung đới, đôi khi ở đó nó được phân nhánh ra b. Trung đới Là phần kéo dài của chỉ nhị vào trong bao phấn, nó ngăn cách giữa 2 nửa bao phấn. Đôi khi trung đới có thể kéo dài vượt quá bao phấn tạo thành một mào lông (như ở hoa Trúc đào) hoặc thành một tuyến (gạo sen ở hoa Sen). c. Bao phấn Bao phấn có nhiều hình dạng khác nhau: hình tròn, hình thận, hình thuôn dài, hình mũi tên… Mỗi bao phấn thường gồm 2 (hoặc1) nửa bao phấn (ô phấn). Mỗi nửa bao phấn khi còn non thường gồm 2 túi phấn bên trong chứa hạt phấn nhưng khi chín, 2 túi phấn đó thường thông với nhau thành một. Như vậy, túi phấn tương đương với túi bào tử nhỏ ở thực vật hạt trần. Khi bao phấn chín, thường nứt theo nhiều kiểu khác nhau: kiểu nứt dọc (phổ biến ở nhiều cây) hoặc mở ra bằng lỗ ở đỉnh (một số cây trong họ Cà) hoặc mở bằng các mảnh van như lưỡi gà (các cây trong họ Long não). Trong trường hợp bao phấn nứt dọc, kẽ nứt có thể quay vào phía trong, đó là bao phấn hướng trong, kẽ nứt quay ra phía ngoài gọi là bao phấn hướng ngoài. Bao phấn được đính vào chỉ nhị theo nhiều kiểu khác nhau: bao phấn đính gốc – bao phấn thường nằm trên đỉnh của chỉ nhị; bao phấn đính lưng – bao phấn đính vào chỉ nhị ở một điểm của trung đới và phần lưng của bao phấn nằm trên đỉnh của chỉ nhị. + Cấu tạo của bao phấn và hạt phấn Hình 4.6. Một số kiểu nứt của bao phấn 1,2. Nứt dọc; 3-6. Các kiểu nứt lỗ; 7,9. Nứt lưỡi gà (Nứt van); 8. Nứt ngang. 94 Bao phấn: màng bao phấn gồm nhiều lớp tế bào bao lấy các nửa bao phấn (ô phấn); lớp ngoài cùng của bao phấn là các tế bào biểu bì – đó là những tế bào nhỏ, dẹp. Dưới biểu bì là những tế bào vòng cơ, gồm những tế bào có màng dày hóa gỗ hình chữ V, còn mặt ngoài vẫn bằng cellulose, các tế bào này giúp cho việc mở bao phấn. Lớp trong cùng của vách bao phấn là tầng nuôi dưỡng, tầng này nằm sát ngay ô phấn và tham gia vào việc nuôi dưỡng tế bào mẹ hạt phấn cũng như hạt phấn sau này, các tế bào của tầng nuôi dưỡng có kích thước tương đối lớn, màng mỏng và rất giàu chất tế bào. Hạt phấn: hạt phấn được hình thành từ các tế bào mẹ hạt phấn (nguyên bào tử). Mỗi tế bào mẹ hạt phấn, bằng hình thức phân chia giảm nhiễm cho ra 4 bào tử, tức 4 hạt phấn đơn bội. Hạt phấn thường có dạng hình cầu, kích thước vào khoảng 10 – 15 m, thường có màu vàng nhạt. Về mặt cấu tạo, hạt phấn thường có 2 lớp màng, lớp màng ngoài dày, bằng cutin, trên bề mặt có những khe rãnh lỗ gọi là lỗ nảy mầm, số lượng rãnh và lỗ thay đổi khác nhau tùy từng loài, ở một số cây thuộc họ Cúc, họ Bông mặt ngoài thường có những gai nhỏ; lớp màng trong của hạt phấn thường mỏng hơn và bằng pectin, thường dày lên trước các lỗ nảy mầm. Bên trong hạt phấn là 2 tế bào: tế bào dinh dưỡng lớn – về sau sẽ phát triển thành ống phấn, tế bào nhỏ hơn là tế bào phát sinh sau sẽ cho ra 2 tinh tử, hạt phấn ở giai giai đoạn phát triển thành 2 tế bào như vậy tương ứng với thể giao tử đực.

Cấu Tạo Các Thành Phần Của Nhãn Quần Áo

Tem áo, tem quần:

Đây là một trong những bộ phận quan trọng nhất của nhãn quần áo giúp người dùng thể hiện được nhiều thông tin khác nhau. Vị trí của nhãn áo được đặt ở phía cổ áo, trên cạp quần. Thông tin trên tem áo quần thường ghi thương hiệu, size số … nhằm quảng bá thương hiệu của sản phẩm. Vì vậy mà đây là bộ phận được các nhà cung cấp chú trọng nhất.

Nhãn áo thường được làm bằng chất liệu lụa, cotton… Trên bề mặt có những họa tiết tinh tế được làm chủ yếu bằng dệt để không làm phai mờ. Bộ phận này thường được chú ý nhiều nhất bởi vị trí đặt ở cổ áo, cạp quần khiến người dùng luôn nhìn thấy rõ khi sử dụng sản phẩm.

hang tags

Bộ phận này cũng được các nhà cung cấp rất chú trọng khi làm nhãn quần áo. Chúng ta thường thấy bộ phận này kèm theo ở áo hoặc được đính cùng dây cso đục lỗ như thẻ bài. Thông thường, chất liệu thường là giấy cứng. Thông tin thể hiện trên bộ phần này là: logo, tên thương hiệu, size quần áo, chất liệu quần áo….

Care labels

Bộ phận này được gọi với cái tên đơn giản là hướng dẫn sử dụng. Bộ phận này thường được nằm gọn ở một bên của quần áo. Bộ phận này cũng được người dùng sử dụng khá nhiều bởi chúng cung cấp cho họ các thông tin về cách sử dụng ra sao? Thông thường, bộ phận này được làm bằng vải giấy, vải lụa…mang lại tính chuyên nghiệp hơn.

Nhãn quần áo được đặt làm với đầy đủ các loại trên cần tìm địa chỉ chuyên nghiệp, uy tín và chất lượng. Có như vậy, các nhà sản xuất quần áo mới tung được sản phẩm ra thị trường chất lượng, chuyên nghiệp nhất.

Lựa chọn địa chỉ chất lượng

Lựa chọn địa chỉ chuyên nghiệp, giá rẻ

Bên cạnh yếu tố về chất lượng thì tính chuyên nghiệp và giá cả phù hợp cũng được nhiều người quan tâm. Với tính chuyên nghiệp cao, khách hàng khi đặt làm tem mác quần áo sẽ được đáp ứng tốt nhất. Cùng với đó, mức giá rẻ cũng là yếu tố mà nhiều đơn vị quan tâm để đảm bảo chi phí thấp nhất. Giúp giá thành tung ra thị trường nhỏ có nhiều lợi nhuận hơn.

http://kieuhoalabel.com/in-nhan-mac-quan-ao/

Đặc Điểm Cấu Tạo Hệ Thần Kinh Thực Vật!

Hệ giao cảm có 2 trung tâm: Trung tâm cao (phía sau vùng dưới đồi) và trung tâm thấp (nằm ở sừng bên chất xám tủy sống từ đốt ngực 1 đến đốt thắt lưng 2 (T1 – L2)).

Các nơ ron ở sừng bên tủy sống phát ra các sợi gọi là sợi trước hạch, chúng đi đến các hạch giao cảm. Tùy vào vị trí, hạch giao cảm được chia làm 2 loại:

Hạch giao cảm cạnh sống: Xếp thành chuỗi 2 bên cột sống, gồm có:Hạch cổ trên,hạch cổ giữa,hạch cổ dưới (hay hạch sao).

Các hạch lưng và bụng: Hạch giao cảm trước cột sống,hạch đám rối dương, hạch mạc treo tràng trên,hạch mạc treo tràng dưới.

Từ các hạch này, thân nơ ron phát ra các sợi đi đến các cơ quan gọi là sợi sau hạch. Riêng đường giao cảm đi đến tuyến thượng thận không có sợi sau hạch. Vì vậy, tuyến thượng thận được xem như một hạch giao cảm lớn.

Chất trung gian hóa học của hệ giao cảm:

Khác nhau giữa 2 sợi trước hạch và sau hạch:Sợi trước hạch: acetylcholin, sợi sau hạch: norepinephrin. Tuy nhiên, sợi sau hạch giao cảm đi đến tuyến mồ hôi và mạch máu cơ vân thì chất trung gian hóa học là acetylcholin.

Receptor tiếp nhận norepinephrin của hệ giao cảm được gọi là noradrenergic receptor. Bên cạnh norepinephrin, các receptor này cũng đáp ứng với epinephrin. Tuy nhiên, mức độ và hình thức đáp ứng của các receptor đối với 2 chất này rất khác nhau. Dựa vào mức độ và hình thức đáp ứng đó, người ta chia các receptor này ra làm 2 loại:

a noradrenergic receptor, b noradrenergic receptor. Ngoài ra, a còn chia ra a1 và a2, b chia ra b1 và b2.

Nằm phía trước vùng dưới đồi.

Phía trên: nằm ở thân não, theo các dây thần kinh sọ III, VII, IX, X đi đến các cơ quan ở vùng mặt và các tạng trong ổ bụng

Phía dưới: ở sừng bên chất xám tủy sống từ đốt cùng 2 đến cùng 4 (S2 – S4) rồi theo dây thần kinh chậu đi đến phần dưới ruột già, bàng quang và cơ quan sinh dục

Gồm có: Hạch mi, hạch tai, hạch dưới hàm và dưới lưỡi, hạch vòm khẩu cái.

Các hạch nằm ngay trong thành các cơ quan: sợi trước hạch đi tới các cơ quan này nằm trong thành phần của dây X và dây chậu, hạch và sợi sau hạch nằm ngay trong các cơ quan ở lồng ngực, ổ bụng và cơ quan sinh dục.

Chất trung gian hóa học của hệ phó giao cảm:

Cả sợi trước hạch và sau hạch đều là acetylcholin.

Receptor tiếp nhận acetylcholin của toàn bộ hệ phó giao cảm (cũng như của các sợi trước hạch giao cảm và một số sợi sau hạch giao cảm) được gọi là cholinergic receptor.

Dựa vào tính chất dược lý, người ta chia các receptor này ra làm 2 loại:

Muscarinic receptor: Chịu tác dụng kích thích của muscarin, một loại độc tố của nấm độc. Muscarinic receptor phân bố chủ yếu ở cơ trơn và mạch máu, chúng bị ức chế bởi atropin.

Nicotinic receptor: Chịu tác dụng kích thích của nicotin nhưng không chịu tác dụng của muscarin. Nicotinic receptor được phân bố ở hạch giao cảm, hạch phó giao cảm và không bị atropin ức chế.

3. So sánh giữa hệ giao cảm và phó giao cảm

Trung tâm nằm liên tục trong tuỷ sống

Trung tâm không nằm liên tục nhau trên não và trong tuỷ sống.

Hạch giao cảm nằm gần trung tâm, xa tạng

Hạch phó giao cảm nằm gần tạng, xa trung tâm

Sợi tiền hạch ngắn, sợi hậu hạch dài

Sợi tiền hạch dài, sợi hậu hạch ngắn

Một sợi tiền hạch thường tạo synap với khoảng 20 sợi hậu hạch nên khi kích thích ảnh hưởng giao cảm thường lan rộng

Một sợi tiền hạch nối với một sợi hậu hạch nên khi kích thích ảnh hưởng phó giao cảm thường khu trú.

Nói chung, tác dụng của 2 hệ giao cảm và phó giao cảm trên các cơ quan là đối ngược nhau. Sự đối ngược đó giúp cho hệ thần kinh thực vật điều hòa các hoạt động tinh vi và nhanh chóng hơn (bảng).

Ví dụ: dưới tác dụng điều hòa của thần kinh thực vật , nhịp có thể tăng lên 2 lần trong vòng 3-5 giây, huyết áp có thể hạ thấp đến mức gây ngất trong vòng 4-5 giây.

Bảng: Chức năng của hệ thần kinh thực vật .

Thần Kinh Thực Vật Là Gì? Chức Năng Và Cấu Tạo Của Hệ Thần Kinh Thực Vật

Thần kinh thực vật là một thuật ngữ còn khá xa lạ đối với những người không có chuyên môn.

Khi tìm hiểu về bất cứ một vấn đề gì, chúng ta cũng cần nắm rõ khái niệm của nó. Khái niệm, bản chất và chức năng là các phạm trù bao trùm một cách tổng thể nhất.

Thần kinh thực vật (Autonomic Nervous System) còn có tên gọi khác là là hệ thần kinh tự chủ. Hệ thần kinh thực vật là bộ phận của hệ thần kinh ngoại vi. Nó cung cấp cho các tuyến và cơ trơn. Do đó, nó ảnh hưởng đến các chức năng của các cơ quan nội tạng.

Hệ thần kinh thực vật này chịu sự chi phối của các bộ phận thần kinh hoạt động một cách tự động và trong vô thức. Hệ thống này hoàn toàn không nằm trong sự kiểm soát của con người. Nó hoạt động như thần kinh của loài thực vật vậy!

Chức năng của hệ thần kinh thực vật là gì?

Hệ thống thần kinh thực vật là một hệ thống kiểm soát các hoạt động vô thức. Bên cạnh đó nó điều chỉnh các chức năng của cơ thể như hô hấp, nhịp tim, tiêu hóa, tiểu tiện, kích thích tình dục và các phản ứng khác của con người.

Ví dụ như vào buổi tối lúc ta ngủ say, chúng ta không còn ý thức được các hoạt động của cơ thể. Lúc đấy hệ thần kinh thực vật vẫn làm việc một cách chăm chỉ.

Nó giúp tim đập, da tiết mồ hôi, dạ dày co bóp tiêu hóa và phổi hô hấp bình thường… Thần kinh thực vật là một cơ chế hoạt động tuyệt vời. Nó có thể giúp cơ thể sống của chúng ta hoạt động một cách hoàn hảo trọn vẹn nhất. Bên cạnh đó lại tiết kiệm được năng lượng cho cơ thể và thực hiện đầy đủ các chức năng cần thiết.

Cấu tạo của hệ thần kinh thực vật

Hệ thần kinh thực vật được chia thành 2 hệ, đó là hệ thần kinh giao cảm và hệ thần kinh đối giao cảm. Hai hệ thần kinh này có vị trí, cấu tạo, chức năng khác và trái ngược nhau.

Tưởng chừng như chúng mâu thuẫn nhưng lại rất thống nhất trong một hệ thống cơ sở chung. Cùng nhau giúp cơ thể con người thích nghi được với các hoạt động sống.

Hệ thần kinh giao cảm: (Hệ thống chạy hay chiến đấu)

Hệ thần kinh này có chức năng cụ thể là :

Thúc đẩy các phản ứng chạy hay chiến đấu ở cơ thể, kích thích, ức chế tiêu hóa, tạo ra năng lượng.

Giúp tăng cường dòng máu đến các cơ xương và phổi.

Giúp tăng nhịp tim, co bóp các tế bào tim.

Giúp giãn đồng tử và các cơ mi, tăng tầm nhìn xa cho mắt.

Giúp lưu thông adrenaline và kích thích giãn tiểu phế quản. Bên cạnh đó còn cho phép trao đổi oxy phế nang.

Kích thích cực khoái cho cơ thể.

Hệ thần kinh đối giao cảm: (hệ thống nghỉ ngơi, điều hòa ăn uống, sinh đẻ)

Hệ thần kinh đối giao cảm có chức năng cụ thể là:

Giúp cơ thể tăng tuyến nước bọt, nước tiểu và tuyến lệ.

Giúp co đồng tử và cơ mi, giúp nhìn gần dễ dàng hơn.

Giãn mạch máu, co phổi,…

Giúp giãn cơ thắt ở trong ruột.

Tăng nhẹ tổng hợp glycogen ở trong gan.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thần kinh thực vật

Hệ thần kinh thực vật hoạt động bình thường hay không một phần do các yếu tố ảnh hưởng đến nó.

Khi con người có những thay đổi về mặt cảm xúc. Nó được thể hiện bởi sự thay đổi nhịp tim, nhịp thở và ở các cơ quan nội tạng. Đây là lúc mà ảnh hưởng của vỏ não tác động đến hệ thần kinh thực vật rõ ràng nhất.

2. Vai trò của vùng dưới đồi

Trung tâm cao nhất của hệ thần kinh thực vật là vùng dưới đồi. Thần kinh thực vật giúp kích thích phần trước của vùng dưới đồi. Từ đó gây ra các đáp ứng giống kích thích hệ thần kinh đối giao cảm. Và từ đó kích thích phần sau vùng dưới đồi, gây ra các đáp ứng giống kích thích hệ thần kinh giao cảm..

3. Vai trò của hành não, cầu não và não giữa

Nhiều vùng của hành não, não giữa và cầu não có tác dụng điều hòa các chức năng của hệ thần kinh thực vật. Như nhịp tim, huyết áp, co cơ bàng quang,… Các hoạt động chức năng có tính sinh mệnh (hô hấp, nhịp tim, huyết áp) được điều hòa bởi các trung tâm nằm ở phần thấp của thân não.

Các cơ quan của hệ thần kinh thực vật chịu ảnh hưởng đồng thời bởi 2 cơ chế. Đó đó là trực tiếp của hệ giao cao và gián tiếp của tủy thượng thận thông qua các hormone.

Stress kích thích hệ giao cảm. Khi hệ giao cảm hưng phấn sẽ làm tăng huyết áp, tăng lượng máu tới các cơ. Tuy nhiên lại làm giảm lượng máu tới thận, ống điều hòa, các cơ quan không cần thiết khác.