Đề Xuất 4/2023 # Thơ Và Đặc Điểm Của Ngôn Ngữ Thơ # Top 9 Like | Comforttinhdauthom.com

Đề Xuất 4/2023 # Thơ Và Đặc Điểm Của Ngôn Ngữ Thơ # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Thơ Và Đặc Điểm Của Ngôn Ngữ Thơ mới nhất trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Thơ là một hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài người. Chính vì vậy mà có một thời gian rất, dài thuật ngữ thơ được dùng chỉ chung cho văn học. Thơ có lịch sử lâu đời như thế nhưng để tìm một định nghĩa thể hiện hết đặc trưng bản chất của nó cho việc nghiên cứu thơ ngày nay thì thật không dễ.

Trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa, khái niệm “thơ là gì?” đã được đề cập đến từ rất sớm. Cách đây khoảng 1500 năm, trong cuốn Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp đã đề cập đến ba phương diện cơ bản cấu thành nên một bài thơ là tình cảm, ý nghĩa (tình văn), ngôn ngữ (hình văn) và âm thanh (thanh văn). Kế thừa quan niệm của Lưu Hiệp, đến đời Đường, Bạch Cư Dị đã nêu lên các yếu tố then chốt tạo thành điều kiện tồn tại của thơ: “Cái cảm hoá được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa”. Quan niệm này không chỉ dừng lại ở việc nêu lên các yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn chỉ ra mối quan hệ gắn bó giữa chúng, giống như gốc rễ, mầm lá, hoa, quả gắn liền với nhau trong một thể thống nhất hoàn chỉnh và sống động. Đây có thể coi là quan niệm về thơ toàn diện và sâu sắc nhất trong nền lý luận văn học cổ điển Trung Hoa.

Các nhà Cấu trúc chủ nghĩa Châu Âu lại thay thế câu hỏi “thơ là gì?” bằng một câu hỏi khác: tính thơ là gì? và nó được thể hiện ra như thế nào? Trong tiểu luận “Thơ là gì”, Jacobson viết: “Nhưng tính thơ được biểu hiện ra như thế nào? Theo cái cách từ ngữ được cảm nhận như là từ ngữ chứ không phải như vật thay thế đơn giản của đối tượng được chỉ định, theo cách những từ, những cú pháp, những ngữ nghĩa của chúng, hình thức bên trong và bên ngoài của chúng không phải là các dấu hiệu vô hồn của hiện thực mà còn có trọng lượng riêng, giá trị riêng”. Tiếp tục triển khai lý thuyết tự qui chiếu, Jacobson sau khi nhắc lại hai kiểu sắp xếp cơ bản của hoạt động ngôn ngữ là tuyển chọn và kết hợp, đã đi đến kết luận: “Chức năng thi ca đem nguyên lý tương đương của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp”. Mặc dù có lưu ý ít nhiều đến hoạt động nguyên lý tương đương về ý nghĩa nhưng trong tư duy nghiên cứu của Jacobson, cái ý nghĩa ở đây chỉ là ý nghĩa của đối tượng gọi tên và ý nghĩa ngữ pháp nảy sinh từ những mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc có tính chất khép kín của văn bản. Điều đó cũng có nghĩa là khái niệm ý nghĩa được hiểu một cách hạn hẹp. Bởi trong thực tế, như ta thấy, ý nghĩa của thơ nhiều khi đã vượt ra ngoài giới hạn của văn bản.

Ở Việt Nam, khái niệm “thơ là gì?” cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến với nhiều quan niệm, nhiều khuynh hướng khác nhau. Lý giải về bản chất của thơ, các tác giả nhóm Xuân thu nhã tập cho rằng: “Thơ là một cái gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thuý, cao siêu”. Còn nhà thơ Tố Hữu thì quan niệm: “Thơ là cái nhuỵ của cuộc sống”. Dưới cái nhìn cấu trúc, nhà nghiên cứu Phan Ngọc định nghĩa: “Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và suy nghĩ do chính hình thức ngôn ngữ này”. Định nghĩa này của giáo sư Phan Ngọc đã kế thừa được những khám phá quan trọng về thơ của nhiều nhà nghiên cứu thuộc các trường phái khác nhau của Tây Âu trong mấy chục năm qua. Đặc biệt, đã gợi ra một trường nghiên cứu thơ hết sức rộng rãi: thơ không chỉ là hiện tượng ngôn ngữ học thuần tuý mà chủ yếu là hiện tượng giao tiếp nghệ thuật, một phát ngôn trong ý nghĩa đầy đủ của từ này.

Lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học đã được chứng kiến rất nhiều định nghĩa về thơ. Theo tôi, cách định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học có thể xem là chung nhất: “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”. Định nghĩa này đã định danh một cách đầy đủ về thơ ở cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Đặc biệt, đã khu biệt được đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ trong những thể loại văn học khác.

Từ sự nhận diện về thơ như trên, ta có điều kiện để đi vào tìm hiểu những đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ. So với ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ thơ trữ tình có những điểm khác biệt như:

1. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính Thơ trữ tình phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn bằng cả âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy. Nếu như trong văn xuôi, các đặc tính thanh học của ngôn ngữ (như cao độ, cường độ, trường độ…) không được tổ chức thì trong thơ, trái lại, những đặc tính ấy lại được tổ chức một cách chặt chẽ, có dụng ý, nhằm tăng hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra những điều mà từ ngữ không nói hết. Bởi thế, đặc trưng tính nhạc được coi là đặc trưng chủ yếu mang tính loại biệt rõ nét của ngôn ngữ thơ ca.

Theo các nhà nghiên cứu, nhạc tính trong thơ được thể hiện ra ở ba mặt cơ bản. Đó là: sự cân đối, sự trầm bổng và sự trùng điệp:

– Sự cân đối là sự tương xứng hài hoà giữa các dòng thơ. Sự hài hoà đó có thể là hình ảnh, là âm thanh, chẳng hạn:

“Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi” (Nguyễn Bỉnh Khiêm).

Cũng có thể là cách sắp xếp tổ chức mà chúng ta dễ dàng nhận thấy ở cặp câu thực, câu luận trong bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Đối với thơ hiện đại, yêu cầu này không khắt khe. Tuy vậy, nhà thơ vẫn hết sức chú ý đến hiệu quả nghệ thuật của phép đối xứng trong thơ của mình.

– Sự trầm bổng của ngôn ngữ thơ thể hiện ở cách hoà âm, ở sự thay đổi độ cao giữa hai nhóm thanh điệu. Xuân Diệu với hai dòng thơ toàn vận dụng vần bằng đã biểu hiện được cảm xúc lâng lâng, bay bổng theo tiếng đàn du dương, nhẹ êm:

“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”

Chính Tố Hữu đã có lần nói đến giá trị ngữ âm của từ “xôn xao” trong câu thơ “Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa” (Mẹ Tơm). Đó đâu chỉ là âm vang của tự nhiên mà là âm vang của tâm hồn. Cái làm nên âm vang đó chính là âm thanh, âm thanh của từ “xôn xao” đã cùng với nghĩa của nó làm nên điều kỳ diệu ấy. Sự trầm bổng của ngôn ngữ còn thể hiện ở nhịp điệu:

“Sen tàn/ cúc lại nở hoa Sầu dài/ ngày ngắn/ đông đà sang xuân”.

Dòng thơ cắt theo nhịp 2/4 và 2/2/4 đều đặn như nhịp chuyển vần đều đặn của tháng năm bốn mùa… Nhịp thơ ở đây là nhịp của cảm xúc, cảm nhận. Như vậy, âm thanh, nhịp điệu trong thơ không đơn thuần là hình thức mà là những yếu tố góp phần biểu hiện những khía cạnh tinh vi của đời sống tình cảm con người.

– Sự trùng điệp của ngôn ngữ thơ thể hiện ở sự dùng vần, điệp từ, ngữ và điệp cú. Chúng có tác dụng như một phương tiện kết dính các dòng thơ lại với nhau thành một đơn vị thống nhất, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho trí nhớ vừa tạo nên vẻ đẹp trùng điệp cho ngôn ngữ thơ:

“Lầu mưa xuống, thềm lan mưa xuống Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn Nước non rả rích giọt đàn mưa xuân” (Tiếng đàn mưa- Bích Khê).

Lối điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc ở đây vừa diễn tả được hình ảnh cơn mưa của đất trời vừa tạo nên một ấn tượng vương vấn không dứt trong lòng người. Như vậy, nhạc điệu trong thơ là một đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ thơ. Ngày nay, nhu cầu của thơ có phần đổi khác. một số người có xu hướng bỏ vần để tạo cho câu thơ sự tự do hoá triệt để. Nhưng nếu không có một nhạc điệu nội tại nào đó như sự đối xứng giữa các dòng, các đoạn thơ, tiết tấu, nhịp điệu của câu thơ thì không còn là ngôn ngữ thơ nữa.

2. Ngôn ngữ thơ có tính hàm súc Đây là đặc điểm chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, nhưng do đặc trưng của thể loại mà nó biểu hiện một cách tập trung với yêu cầu cao nhất trong ngôn ngữ thơ. Nếu ngôn ngữ văn xuôi tự sự là ngôn ngữ của cuộc sống đời thường, nó chấp nhận mọi lớp từ, mọi biến thái, mọi chiều kích, thậm chí cả sự xô bồ, phồn tạp đến cực độ để tái hiện bộ mặt cuộc sống, tâm lý con người trong sự sâu rộng, đa chiều vốn có của nó thì ngôn ngữ thơ lại mang nặng tính “đặc tuyển”. Là thể loại có một dung lượng ngôn ngữ hạn chế nhất trong các loại tác phẩm văn học, nhưng thơ lại có tham vọng chiếm lĩnh thế giới. Nói như Ôgiêrốp: “Bài thơ là một lượng thông tin lớn nhất trong một diện tích ngôn ngữ nhỏ nhất”. Chính sự hạn định số tiếng trong câu thơ, bài thơ buộc người nghệ sỹ phải “thôi xao”, nghĩa là phải phát huy sự tư duy ngôn ngữ để lựa chọn từ ngữ cho tác phẩm. Bởi thế, Maiacôpxki gọi lao động nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ là “trả chữ với với giá cắt cổ”:“Nhà thơ trả chữ với giá cắt cổ Như khai thác chất hiếm radium Lấy một gam phải mất hàng bao công lực Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ.” Như vậy, tính hàm súc được hiểu là khả năng của ngôn ngữ có thể miêu tả mọi hiện tượng của cuộc sống một cách cô đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý tại ngôn ngoại. Đây chính là cách dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu hiện cao nhất kiểu như Nguyễn Du đã “giết chết” các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến, mỗi tên chỉ bằng một từ: cái vô học của Mã Giám Sinh: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng; cái gian manh của Sở Khanh: Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào; cái tầm thường ti tiện của Hồ Tôn Hiến: Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.

Do quy mô của tác phẩm, thơ ca thường sử dụng từ ngữ rất “tiết kiệm”. Tính hàm súc của ngôn ngữ thơ, vì vậy, chứa đựng các thuộc tính khác. Hàm súc cũng có nghĩa là phải chính xác, giàu hình tượng, có tính truyền cảm và thể hiện cá tính của người nghệ sỹ. Chẳng hạn, từ “khô” trong câu thơ của Tản Đà: “Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày” là một từ có tính hàm súc cao mà những yếu tố tương đương với nó (như “tuôn”) không thể thay thế. Nó không chỉ diễn tả được chiều sâu của tình cảm mà còn gợi lên cả chiều dài của những tháng năm chờ đợi. Nó vừa đảm bảo được tính chính xác, tính hình tượng, vừa có tính truyền cảm.

Để đạt được tính hàm súc cao nhất, có thể biểu hiện được cái vô hạn của cuộc sống trong những cái hữu hạn của các đơn vị ngôn ngữ, thơ ca phải tính đến những kiểu tổ chức đặc biệt mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc gọi là “quái đản”. Dưới áp lực của cấu trúc ngôn ngữ khác thường này, ngữ nghĩa của từ trong thơ không dừng lại ở nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa trong từ điển mà phong phú, sâu sắc, tinh tế hơn. Đó là thứ nghĩa được tạo sinh nhờ quan hệ và trong quan hệ. Ví dụ: Khi Hồng Nguyên viết: “Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau” thì chính trong quan hệ với những yếu tố trước và sau nó mà từ “đột kích” được cấp cho một nghĩa mới, gợi lên những rung động thẩm mỹ. Hay trong câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ: “Em đã lấy tình yêu của mình thắp lên ngọn lửa” thì sự kết hợp bất thường về nghĩa đã mở ra những liên tưởng hết sức thú vị. Trong đời thường, khi nói đến việc “thắp lửa”, người ta một là nghĩ đến phương tiện như: cái bật lửa, que diêm … hai là nguyên liệu như: dầu hoả, dầu dừa … Ở đây, nhà thơ lại thay nó bằng một “chất liệu” rất trừu tượng thuộc lĩnh vực tinh thần. Và trong quan hệ với cái chất liệu trừu tượng đó, nghĩa bề mặt của “ngọn lửa” bị mờ đi, mở ra những nghĩa mới. Đó là: chân lý, niềm tin, lý tưởng cuộc đời…

Định lượng số tiếng trong thơ cũng là tiền đề tạo ra sự xuất hiện với một mật độ dày đặc các phương tiện nghệ thuật trong thơ so với văn xuôi. Nhiều lúc, trong một bài thơ, có thể thấy xuất hiện cùng một lúc các phương tiện tu từ khác nhau, như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, tượng trưng, điệp từ, điệp ngữ. Bài ca dao trữ tình sau đây là một ví dụ:

“Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai Đèn thương nhơ ai Mà đèn không tắt Mắt thương nhớ ai Mắt ngủ không yên Đêm qua em những lo phiền Lo vì một nỗi không yên một bề.” Bài ca dao có số lượng từ không nhiều nhưng bằng các biện pháp tu từ đã thể hiện được tâm trạng khắc khoải nhớ mong của người con gái dường như còn vang mãi, dư âm đến tận bây giờ và cả mai sau, không chỉ của một người mà của nhiều người.

3. Ngôn ngữ thơ có tính truyền cảm Tính truyền cảm cũng là đặc trưng chung của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, bởi tác phẩm văn học là sản phẩm của cảm xúc của người nghệ sĩ trước cảnh đời, cảnh người, trước thiên nhiên. Cho nên, ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương phải biểu hiện được cảm xúc của tác giả và phải truyền được cảm xúc của tác giả đến người đọc, khơi dậy trong lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ. Tuy nhiên, do đặc trưng của thơ là tiếng nói trực tiếp của tình cảm, trái tim nên ngôn ngữ thơ ca có tác dụng gợi cảm đặc biệt. Ngôn ngữ thơ không bao giờ là ngôn ngữ chú trọng miêu tả cái khách quan như ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự. Nếu nhà văn dùng ngôn ngữ để thuyết minh, miêu tả, nhắn nhủ, giải thích… thì nhà thơ dùng ngôn ngữ để truyền cảm. Khi Quang Dũng viết:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Quang Dũng không có ý hỏi ai lên Châu Mộc trong buổi chiều sương nào đó có nhìn thấy phong cảnh hữu tình không mà tác giả khơi trong ta nỗi nhớ thương mất mát, nuối tiếc ngậm ngùi, những ngày tháng, những kỷ niệm, những ảo ảnh đã tan biến trong đời… Quang Dũng gợi trong ta một trạng thái bằng cách hồi sinh những gì đã mất, đồng thời phản ánh tâm trạng của chính mình.

Lời thơ thường là lời đánh giá trực tiếp thể hiện quan hệ của chủ thể với cuộc đời. Là lời đánh giá trực tiếp, thể hiện tâm trạng cho nên sự lựa chọn từ ngữ, phương thức tu từ trong thơ bao giờ cũng nhằm làm cho nội dung cảm xúc, thái độ đánh giá, sự đồng cảm hoặc phê phán, ca ngợi trở nên nổi bật:

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều” (Nguyễn Đình Thi).

Ở đây, mỗi câu thơ đều mang một từ tập trung tất cả sức nặng của tình cảm. Những từ đó như là những tiêu điểm để ta nhìn thấu vào tâm hồn tác giả. Tính truyền cảm của ngôn ngữ thơ không chỉ biểu hiện qua cách lựa chọn từ ngữ, các phương thức tu từ mà còn biểu hiện qua nhạc điệu thơ. Chẳng hạn:

“Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan Đường bạch dương sương trắng nắng tràn” (Tố Hữu).

Sự tập trung dày đặc các nguyên âm có độ mở rộng và phụ âm mũi vang khiến câu thơ nghe giàu tính nhạc, kéo dài như âm vang của sóng biển vỗ bờ. Nhạc tính đó không đơn thuần là sự ngân nga của ngôn ngữ mà còn là khúc nhạc hát lên trong lòng người.

Tóm lại, thơ là một hình thái nghệ thuật cao quí, tinh vi của sáng tạo văn học nghệ thuật. Vì vậy, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ mang tính nghệ thuật; ngôn ngữ thơ trước hết mang đầy đủ những thuộc tính của ngôn ngữ văn học, đó là: tính chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình, tính biểu cảm… Tuy nhiên, ở mỗi loại tác phẩm khác nhau, những đặc điểm ấy lại biểu hiện dưới những sắc thái và mức độ khác nhau. Đồng thời, mỗi loại tác phẩm lại có những đặc trưng ngôn ngữ riêng….

17/5/2011

Hang Nga @ 21:33 29/09/2014 Số lượt xem: 38198

Đặc Điểm Thơ Lục Bát

ĐẶC ĐIỂM THƠ LỤC BÁT

Khi bạn đọc truyện, mở đầu mỗi chương hồi là một cặp lục bát, bạn có cảm thấy tác giả ngầu không?

Đọc truyện thơ Lục Vân Tiên, Truyện Kiều, Lưu Bình – Dương Lễ, Tống Trân Cúc Hoa, bạn có cảm thấy cảm xúc dâng trào không?

Hãy tập làm thơ lục bát để viết truyện vừa ngầu mà tâm hồn lại thêm rộng mở.

Ứng dụng thơ lục bát:

– Thường thấy trong ca dao, tục ngữ, truyện thơ (Truyện Kiều – Nguyễn Du).

– Có khả năng diễn đạt phong phú về mặt tu từ.

– Thuận lợi trong diễn đạt nội dung trầm tĩnh, thong thả, chậm rãi, thích hợp truyện thơ, thơ trữ tình…

Luật thơ lục bát:

Luật thơ thể hiện ở cặp câu lục bát (gồm một câu sáu tiếng (câu lục) và một câu tám tiếng (câu bát)). Cần nắm rõ vần luật và thanh luật trong thể thơ này.

Vần luật:

– Tiếng thứ sáu của hai câu lục bát trong một cặp phải vần với nhau.

– Nếu cặp câu thơ lục bát phát triển thành nhiều cặp, tiếng thứ tám của câu bát phải hiệp vần với tiếng thứ sáu của câu lục tiếp theo.

Thanh luật:

– Thanh bằng: thanh huyền và thanh ngang. Thanh trắc: các thanh còn lại.

– Luật phối thanh:

Tiếng

1

2

3

4

5

6

7

8

Câu 6

  _  

  B    

  _  

  T    

  _  

B (V)

Câu 8

  _  

  B    

  _  

  T    

  _  

B (V)

  _  

B (V)

Giải thích các kí hiệu:

B: thanh bằng;

T: thanh trắc;

V: vần;

__: dùng thanh bằng hay thanh trắc đều được.

– Tiếng thứ sáu của câu 8 là thanh ngang (thanh bổng, âm vực cao) thì tiếng thứ tám phải là thanh huyền (thanh trầm, âm vực thấp) và ngược lại.

Ví dụ:

Trăm năm trong cõi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là (trầm) ghét nhau (bổng).

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau (bổng) đớn lòng (trầm).

(Nguyễn Du – Truyện Kiều)

Lưu ý: trong thơ đôi khi xuất hiện những tình huống không tuân theo luật thơ, cốt để giữ cho cái ý truyền đạt được sâu sắc.

(Bài viết được tham khảo và biên soạn từ sách “Dạy – học tập làm thơ ở Trung học Cơ Sở” – Phạm Minh Diệu – NXB Giáo dục – 2008)

Đặc Điểm Thơ Lục Bát Nguyễn Bính

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN VĂN TRỌNG

ĐẶC ĐIỂM THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH VĂN HỌC

HÀ NỘI – 2013

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN VĂN TRỌNG

ĐẶC ĐIỂM THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH

Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH VĂN HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNG

HÀ NỘI – 2013

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: “Đặc điểm thơ lục bát Nguyễn Bính” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.

Hà Nội, ngày 7 tháng 11 năm 2013 Tác giả luận văn

Trần Văn Trọng

3

LỜI CẢM ƠN

Hà Nội, ngày 7 tháng 11 năm 2013 Tác giả luận văn

Trần Văn Trọng

4

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………. 1 1. Lý do chọn đề tài ………………………………………………………………………………. 1 2. Lịch sử vấn đề ………………………………………………………………………………….. 3 3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu……………………………………………. 5 4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………………………. 5 5. Cấu trúc luận văn ……………………………………………………………………………… 5 CHƢƠNG 1: THỂ THƠ LỤC BÁT VÀ SÁNG TÁC THƠ CỦA NGUYỄN BÍNH …………………………………………………….. 6 1.1. Thể thơ lục bát……………………………………………………………………………….. 6 1.1.1. Lịch sử thể loại …………………………………………………………………….. 6 1.1.2. Đặc điểm thể loại …………………………………………………………………. 7 1.2. Sáng tác thơ của Nguyễn Bính ……………………………………………………….. 15 1.2.1. Hành trình sáng tác …………………………………………………………….. 15 1.2.2. Quan niệm sáng tác …………………………………………………………….. 17 CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH …………………………………………………………… 24 2.1. Cái tôi trữ tình đa cảm …………………………………………………………………… 24 2.1.1. Giới thuyết về cái tôi trữ tình ……………………………………………….. 24 2.1.2. Cái tôi thôn dân ………………………………………………………………….. 25 2.1.3. Cái tôi “sầu đô thị” …………………………………………………………….. 28 2.1.4. Cái tôi công dân …………………………………………………………………. 30 2.2. Tình yêu chân phác, đậm chất thế sự ………………………………………………. 33

5

2.2.1. Tình yêu chân phác, dân dã …………………………………………………. 33 2.2.2. Chất thế sự trong thơ tình ……………………………………………………. 37 2.3. Cảm hứng quê hương, đất nước ……………………………………………………… 43 2.3.1. Cảm hứng quê hƣơng ………………………………………………………….. 43 2.3.2. Cảm hứng đất nƣớc …………………………………………………………….. 51 CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH ………………………………………………………….. 60 3.1. Thể thơ – truyền thống và cách tân………………………………………………….. 60 3.1.1. Tiếp nối truyền thống ………………………………………………………….. 60 3.1.2. Sáng tạo, cách tân ………………………………………………………………. 66 3.2. Ngôn ngữ thơ……………………………………………………………………………….. 72 3.2.1. Sắc thái dân gian, dân tộc ……………………………………………………. 72 3.2.2. Sắc thái hiện đại …………………………………………………………………. 76 3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật ………………………………………………… 81 3.3.1. Thời gian nghệ thuật …………………………………………………………… 81 3.3.2. Không gian nghệ thuật ………………………………………………………… 86 KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………. 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………. 97

6

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đất nước Việt Nam đã sinh ra nhiều nhà thơ tài năng mà tên tuổi của họ sẽ mãi mãi chói sáng trong “viện bảo tàng” lớn nhất của văn chương dân tộc đó là tâm hồn nhân dân, tâm hồn con người Việt Nam. Trong số những nhà thơ tài năng ấy có Nguyễn Bính, một tên tuổi được nhớ tới với những “định danh” đã trở nên quen thuộc: nhà thơ chân quê, thi sĩ của đồng quê, thi sĩ của thƣơng yêu… Trước Cách mạng, ngược lại với nhiều nhà thơ mới chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây, Nguyễn Bính cùng với Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Vũ Đình Liên… quay lại với truyền thống dân tộc trong cả nội dung sáng tác và phương thức biểu hiện. Thơ Nguyễn Bính đã thể hiện thật đậm đặc, tập trung cái hồn quê Việt Nam, cái hồn quê ấy có ở mỗi người Việt Nam qua mọi thời đại. Đọc thơ Nguyễn Bính là lạc vào thế giới của ca dao với vườn trầu, hàng cau, bến đò, giàn đỗ ván, ao rau cần, với những học trò trường huyện, trai gái làng, cô lái đò, cô hàng xóm, mẹ già, em dại rất điển hình của nông thôn Việt Nam xưa, tất cả mang vẻ đẹp chân thực đến cổ điển. Trên cái nền khung cảnh làng quê thơ mộng ấy, Nguyễn Bính đã làm say đắm tâm hồn con người bởi những tình quê chất phác dung dị xúc động đến lạ lùng: tình cảm gia đình, chòm xóm, bạn bè, tình cảm của những con người tha hương nếm trải mọi ấm lạnh của tình đời lại hướng về quê cũ với tận cùng của lòng xót xa thương nhớ. Thơ Nguyễn Bính mang nét buồn chung của thời đại, nhưng chính cái kiểu “nhà quê” gần gũi văn hóa dân gian đã giữ lại sự trong sáng, giản dị mà không quá lãng mạn, ủy mị, bi thương như nhiều tác phẩm thi ca đương thời. Cũng bởi vì văn hóa dân gian là “nơi lui về đồn trú của những đặc trƣng dân tộc về mặt văn hóa luôn luôn bị giai cấp thống trị ngoại bang tìm diệt”[22;179], cho nên nói tính chất dân gian cũng là để nói tính dân tộc đậm đà trong thơ Nguyễn Bính. 7

Từ trước đến nay, giới nghiên cứu và phê bình văn học luôn đánh giá Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ đồng quê trong phong trào Thơ mới. Họ cũng luôn khẳng định những sáng tác có giá trị nhất của Nguyễn Bính là ở giai đoạn đầu – thời kỳ trước Cách mạng. Tô Hoài, một người bạn thân của Nguyễn Bính, cũng từng viết: “Nguyễn Bính chỉ thật riêng một góc trời ở những bài thơ đầu với một mảng thơ đất quê”[16;22]. Dù sao, một điều hiển nhiên ai cũng thấy rõ: tuy là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ lãng mạn nhưng vốn là người đậm đà hồn quê, mang cốt cách giống nòi, thiết tha yêu nước, nên Nguyễn Bính đã bắt kịp nhịp đi hào hùng của dân tộc, khi mọi người theo tiếng gọi của non sông đứng lên chống thực dân, đế quốc và tay sai, tất cả vì một nước Việt Nam mới, độc lập, tự do, hạnh phúc. Thơ Nguyễn Bính cũng đã có những chuyển biến lớn lao theo dòng chảy vĩ đại của thời đại mới. Nguyễn Bính tham gia Cách mạng tháng Tám, rồi tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, ông liên tục cho ra đời nhiều tập thơ yêu nước. Năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, ông làm thơ ca ngợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và hướng về sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước. Có thể nói bút lực của Nguyễn Bính sau Cách mạng không hề giảm sút, trái lại vẫn dồi dào mạnh mẽ, đầy nhiệt huyết, chứa chan bao ân tình với cuộc sống và con người. Hơn nữa, cái hồn dân tộc từ ngàn đời, cơ hồ đã gắn bó với tâm hồn mỗi chúng ta, được tiếp tục chung đúc một cách đằm thắm và hết sức tinh tế trong thơ Nguyễn Bính. Trong cả hai thời kỳ trước và sau Cách mạng tháng Tám, tiếng nói thi ca của Nguyễn Bính luôn đậm đà hồn quê, hồn dân tộc, hồn đất nước. Nguyễn Bính cũng viết nhiều thể thơ, trong đó thể lục bát là thể thơ được ông viết nhiều nhất và thành công hơn cả. Nguyễn Bính đã phổ hồn dân tộc vào một thể thơ đặc biệt truyền thống của dân tộc cho nên thơ Nguyễn Bính có sức lay động mạnh mẽ với mọi tâm hồn Việt Nam. Vì những lý do trên, người viết chọn đề tài luận văn là: Đặc điểm thơ lục bát Nguyễn Bính. 8

2. Lịch sử vấn đề Nhà nghiên cứu văn học Vương Trí Nhàn đã viết: “Chỉ trong phạm vi thế kỷ này, giữa không biết bao nhiêu thi sĩ mà nông thôn nƣớc ta đã cung cấp cho văn học, trƣớc sau, Nguyễn Bính vẫn là một tài năng bậc nhất, hơn nữa, một tài năng tự nhiên, nghĩa là vừa dồi dào vừa độc đáo”[63;206]. Quả vậy, ngay từ độ trình làng bằng bài Mưa xuân (1936) trên tờ Ngày nay và bài Cô hái mơ (1937), đặc biệt là sau Lỡ bước sang ngang, thơ Nguyễn Bính đã chiếm được lòng yêu mến của đông đảo bạn đọc và sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Trước hết là Hoài Thanh với bài giới thiệu Nguyễn Bính trong Thi nhân Việt Nam: “Cái đẹp của vần thơ Nguyễn Bính, tuy cảm đƣợc một số đông công chúng mộc mạc, khó lọt vào con mắt của các nhà thông thái thời nay. Tình cờ có đọc thơ Nguyễn Bính, họ sẽ bảo „Thơ nhƣ thế này thì có gì?‟. Họ có ngờ đâu, đã bỏ rơi một điều mà ngƣời ta không thể hiểu bằng lý trí, một điều quý giá vô ngần: hồn xƣa của đất nƣớc…”[80;348]. Trong kháng chiến chống Pháp, người ta vẫn trân trọng những “vần thơ xưa” của ông. Hòa bình lập lại, ở miền Bắc, cùng chịu chung số phận với các nhà thơ mới, việc giới thiệu và nghiên cứu thơ Nguyễn Bính ít được chú trọng. Ở miền Nam, thơ Nguyễn Bính được giới thiệu trong giáo trình Thế hệ 1932 của Đại học Văn khoa Sài Gòn, được nhận xét, thẩm định trong một số chuyên luận về thơ tiền chiến (Việt Nam thi nhân tiền chiến của Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, Việt Nam văn học sử giản ƣớc tân biên của Phạm Thế Ngũ…). Sau năm 1975, việc nghiên cứu thơ Nguyễn Bính có bước tiến mạnh mẽ. Thơ Nguyễn Bính được nghiên cứu sâu trong nhiều công trình: Phong trào Thơ mới (Phan Cự Đệ), Thơ mới những bƣớc thăng trầm (Lê Đình Kỵ), Giáo trình văn học Việt Nam 1930 – 1945 (Phan Cự Đệ, Hà Văn Đức, Nguyễn Hoành Khung), Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Vũ Đình Liên (Lê Bảo), Nguyễn Bính thi sĩ của đồng quê (Hà Minh Đức), Nguyễn Bính hành trình sáng tạo thi 9

ca (Đoàn Đức Phương), Ba đỉnh cao thơ mới: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử (Chu Văn Sơn)… Bên cạnh đó, phải kể đến hàng loạt bài viết của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, nhà văn, nhà thơ đã viết về Nguyễn Bính và thơ Nguyễn Bính với tình cảm yêu mến và trân trọng, như: Tô Hoài, Vũ Quần Phương, Lê Đình Kỵ, Mã Giang Lân, Đỗ Lai Thúy, Hoài Việt, Bùi Hạnh Cẩn, Lại Nguyên Ân… Nữ sĩ Mộng Tuyết viết: “Bính viết lục bát nhanh nhƣ văn xuôi”. Đoàn Thị Đặng Hương khẳng định: “Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ bậc nhất của thế kỷ này về thơ lục bát”. Ngoài ra, còn nhiều bài viết, khóa luận, luận văn, luận án khác lấy Nguyễn Bính và thơ Nguyễn Bính làm đề tài nghiên cứu. Đặc biệt, nhà thơ Nga Ilia Phônhiacôp đã giới thiệu văn học Việt Nam và thơ Nguyễn Bính với độc giả Xô Viết: “Đã xuất hiện nhiều tuyển tập của nhà văn nổi tiếng Vũ Trọng Phụng…, lại vang lên những câu thơ bộc bạch tâm tƣ mạnh mẽ, lạnh lùng của thi sĩ Hàn Mặc Tử… Nhƣng có lẽ hiện tƣợng nổi bật nhất là sự trở về của Nguyễn Bính”[63;292]. Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến mọi phương diện nội dung và nghệ thuật thơ Nguyễn Bính. Tuy nhiên, chưa có công trình, bài viết nào tập trung nghiên cứu đặc điểm thơ lục bát Nguyễn Bính. Đó là điều kiện để chúng tôi, trên tinh thần kế thừa và phát triển, với tinh thần cầu thị, có thể đi sâu vào tìm hiểu và đạt được mục đích nghiên cứu. 3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm thơ lục bát của Nguyễn Bính. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thơ lục bát của Nguyễn Bính ở cả hai thời kỳ trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Luận văn hướng tới mục đích là phát hiện và khẳng định giá trị nội dung tư tưởng, giá trị nghệ thuật biểu hiện của thơ lục bát Nguyễn Bính nói riêng, thơ Nguyễn Bính nói chung. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 10

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: – Phương pháp phân tích, tổng hợp. – Phương pháp lịch sử – xã hội. – Phương pháp loại hình. – Phương pháp so sánh, đối chiếu. – Phương pháp thống kê. 5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương: – Chương 1: Thể thơ lục bát và sáng tác của Nguyễn Bính. – Chương 2: Đặc điểm nội dung thơ lục bát Nguyễn Bính. – Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật thơ lục bát Nguyễn Bính.

11

Chƣơng 1 THỂ THƠ LỤC BÁT VÀ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN BÍNH 1.1. Thể thơ lục bát 1.1.1. Lịch sử thể loại Thơ lục bát đã có truyền thống lâu đời. Theo ý kiến chung của nhiều nhà nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa dân gian (Nguyễn Văn Hoàn – Thể lục bát từ ca dao đến Truyện Kiều; Nguyễn Xuân Kính – Thi pháp ca dao…), thể lục bát, sớm nhất, cũng chỉ xuất hiện vào cuối thế kỷ XV. Từ đó đến nay, thể thơ này đã phát triển qua các giai đoạn: lục bát từ cuối thế kỷ XV đến trước Truyện Kiều; lục bát trong Truyện Kiều; lục bát trong Phong trào Thơ mới; lục bát đương đại. Lục bát là thể thơ cách luật đặc sắc của dân tộc, gần gũi với đời sống như hơi thở con người. Lục bát là đứa con cưng của tiếng Việt; tiếng Việt đã nuôi lớn lục bát, đồng thời chính lục bát góp phần làm cho tiếng Việt hay hơn, đẹp hơn. Từ lục bát của ca dao, đến Truyện Kiều rồi thơ hiện đại, thể thơ dân tộc này đã hiện hình một cách tài hoa, đã xác định cho mình một cấu trúc hoàn chỉnh, chuẩn mực. Trong các thể thơ bền vững, lục bát có sức sống kỳ diệu, liên tục được bạn đọc yêu thích. Bảng thống kê tỉ lệ thơ lục bát trong số 1144 bài thơ ở Tuyển tập thơ Việt Nam 1975-2000 sẽ cho ta thấy rõ điều này: Thể thơ (chữ) Số bài Tỉ lệ(%)

Lục

Tự do và

Thơ văn

bát

hợp thể

xuôi

645

6

56

0.5

4

5

6

7

8

7

118

34

95

18 221

0.6 10.0 3.0 8.3 1.5

19

Với tỉ lệ 19% đứng thứ hai sau thơ tự do và hợp thể, thơ lục bát vẫn chứng tỏ được khả năng và sức sống lâu bền của mình. Lý giải điều này, Nguyễn Phan Cảnh cho rằng thơ lục bát mang trong mình “những đặc

12

trƣng dân tộc về mặt văn hóa đã nén lại trong dạng dân gian để tồn tại ” [22;188-198]. So với các thể thơ khác, thể lục bát – hồn phách của dân tộc Việt, với sự phối hợp hài hòa giữa dòng 6 chữ và dòng 8 chữ, cùng với nhịp điệu mềm mại và cách phối vần lưng đặc trưng của nền văn hóa Á Đông đã sống mạnh mẽ cùng với nhiều thế hệ Việt Nam từ thuở khai sinh đến nay (bắt đầu từ cuối thế kỷ XV, khi nó được sinh ra cùng với người anh em song thất lục bát). Sự dung dị, mềm mại và khả năng dung nạp được cùng lúc nhiều nội dung đa dạng của đời sống đã khiến cho thể thơ này có sức sống trường tồn. Ngay từ cấu trúc âm luật sáu – tám nhẹ nhàng, mượt mà, giản dị, hài hoà, dễ phối thanh, thể lục bát vốn dĩ đã rất gần gũi lối nói của người dân quê, dễ nghe, dễ nhớ, phù hợp với cảm xúc, lối sống của con người Việt Nam ta. Thêm nữa, thể lục bát lại có khả năng biến hoá linh hoạt chứ không khô cứng. Nó có thể duy trì hình thức chuẩn mực cổ điển, có thể trở về với dân gian hoặc tiến lên theo thi pháp hiện đại. Trên bình diện thưởng thức, thơ lục bát cũng được dân ta ưa chuộng, gìn giữ. Bắt đầu từ ca dao, dân ca, được phát triển qua các truyện Nôm và đạt đến sự hoàn thiện với thiên tài Nguyễn Du, thơ lục bát vẫn được phát huy sức sống mãnh liệt của nó trong nền thi ca hiện đại Việt Nam. Do đó, lục bát là thể thơ có thế mạnh hơn cả trong việc thể hiện tâm hồn dân tộc, những nét văn hóa làng quê, đời sống và con người Việt Nam. 1.1.2. Đặc điểm thể loại Các thể thức của lục bát được tập trung thể hiện trong một khổ gồm hai dòng với số tiếng cố định: dòng 6 tiếng (câu lục) và dòng 8 tiếng (câu bát). Có thể xem cặp 6 tiếng + 8 tiếng là đơn vị tế bào, một chỉnh thể tối thiểu của thơ lục bát: Muốn cho biển hẹp nhƣ ao Bắc cầu đòn gánh mà trao nhân tình (Ca dao)

13

Với sự tuần hoàn đều đặn của hai câu sáu – tám, thể thơ này rất thích hợp cho giọng kể lể, tâm sự, cho những nỗi niềm buồn đau thương xót, bâng khuâng nhớ nhung. Cũng như thể thơ Đường luật, thơ lục bát tuân thủ quy tắc “nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh”, nghĩa là các tiếng 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ. Câu lục theo thứ tự tiếng 2,4,6 là bằng-trắc-bằng; câu bát theo thứ tự tiếng 2,4,6,8 là bằng-trắcbằng-bằng: Trăm năm trong cõi ngƣời ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (Truyện Kiều – Nguyễn Du) Về vần, cách gieo vần phổ biến là vần bằng, vừa gieo vần chân, vừa gieo vần lưng. Tiếng cuối của câu lục hiệp vần với tiếng thứ 6 của câu bát, tiếng thứ 8 của câu bát lại hiệp vần với tiếng 6 của câu lục tiếp theo. Chính sự đắp đổi đều đặn của hai phép gieo vần chân – lưng đã làm cho thơ lục bát có nhịp điệu uyển chuyển nhịp nhàng. Sự chuyển đổi thanh điệu và khuôn âm của hai chữ mang vần ở câu bát đã làm cho hệ thống vần của thơ lục bát luôn chuyển hóa và thông thoáng, rất tự do và dễ liên kết. Nếu lục bát dân gian có xu hướng tự do hóa mình bằng cách mở rộng dung lượng câu và thay đổi cách gieo vần thì lục bát Truyện Kiều lại ổn định số lượng câu chữ và cách gieo vần, nhưng lại tự do hóa mình bằng cách ngắt nhịp trong nội bộ câu. Rất nhiều câu thơ Truyện Kiều nếu đem đặt các dòng thơ theo nhịp thì sẽ thấy hệt như những câu thơ tự do hiện đại : Hỏi tên Rằng Mã Giám sinh Hỏi quê Rằng Huyện Lâm Thanh Cũng gần

14

Thơ lục bát luôn uyển chuyển nhịp nhàng một cách ổn định, đồng thời vẫn dễ co thắt, dễ duỗi dài. Tính đàn hồi này đã làm giàu có thêm khả năng diễn tả của thơ lục bát mà các thể thơ khác khó sánh kịp. Thế nhưng đôi khi tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát có thể tự do, có thể chuyển sang thanh trắc; hoặc là câu lục giữ nguyên, còn câu bát lại theo thứ tự trắc-bằng-trắc-bằng, người ta gọi là lục bát biến thể: – Có xáo thì xáo nƣớc trong Đừng xáo nƣớc đục đau lòng cò con – Con cò lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non (Ca dao) Về cách gieo vần, trong thơ lục bát có hai loại là vần chính và vần thông. Vần chính gọi là vần „giàu‟ hoặc vần „sát‟ gồm những tiếng theo một khuôn âm như ao với sao, mờ với tơ, tơ với chờ: Đêm qua ra đứng bờ ao Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ Buồn trông con nhện giăng tơ Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai (Ca dao) Vần thông còn gọi là vần „nghèo‟ hoặc vần „gượng‟ gồm những tiếng hợp nhau về thanh nhưng chỉ tương tự với nhau về âm, như đình với cành, sen với xin: Hôm qua tát nƣớc đầu đình Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen Em đƣợc thì cho anh xin Hay là em để làm tin trong nhà (Ca dao)

15

Về luật phối thanh, các tiếng chẵn 2 và 6 là thanh bằng, đối nhau qua thanh trắc (4), câu bát có thêm một nhịp bằng nhưng bằng (6) và bằng (8) phải đối nhau về âm vực trầm (thanh huyền), bổng (thanh ngang). Về đối, thơ lục bát không quy định nhất thiết phải có đối. Tuy vậy, đặc trưng phổ biến của lục bát lại là tiểu đối và là đối thanh trong hai tiếng thứ tư hoặc thứ sáu của câu bát với tiếng thứ tám của câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại. Có khi đối ý, có khi lại đối cả ý và thanh. Về nhịp, lục bát thường ngắt nhịp chẵn, mỗi nhịp 2 tiếng nhưng có thể gặp lối ngắt nhịp lẻ và xen kẽ nhịp chẵn / lẻ tùy theo nội dung cảm xúc; ví dụ, nhịp chẵn 4/2 và 2/2/4: Trời mƣa ƣớt bụi/ƣớt bờ Ƣớt cây/ƣớt lá/ai ngờ ƣớt em (Ca dao) hay nhịp lẻ 3/3 trong câu lục: Ngƣời quốc sắc/kẻ thiên tài Tình trong nhƣ đã, mặt ngoài còn e (Truyện Kiều) Có một số biến thể khác trong cấu trúc của thể lục bát: – Thanh bằng ở tiếng thứ 2 đổi thành thanh trắc. Thanh trắc ở tiếng thứ 4 đổi thành thanh bằng (ít gặp). – Gieo vần câu bát ở tiếng thứ tư (có khi là tiếng thứ 2). Tiếng thứ tư này vốn mang thanh trắc phải chuyển thành thanh bằng (trầm). – Câu thơ không phải là 6/8 mà có thể thêm hoặc bớt một số tiếng. Lục bát được nghiên cứu từ rất sớm, ít nhất từ đầu thế kỷ XX trong các công trình nghiên cứu của Dương Quảng Hàm, Hoa Bằng, Đặng Việt Thanh, Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Lân, Nguyễn Hồng Phong, Hoàng Xuân Hãn, Lê Trí Viễn, Phương Lựu, Trần Đình Sử… Hầu hết các tác giả đều thống nhất: thơ lục bát có ngọn nguồn từ văn học dân gian (ca dao, tục ngữ, thành ngữ) và 16

tác phẩm thơ lục bát cổ nhất (Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào của Lê Đức Mao) là khoảng thế kỷ XV. Nó là “lối văn riêng của ta mà Tàu không có”, “phát nguyên bởi ca dao phƣơng ngôn, ngạn ngữ đời cổ”, là “thể văn tuyệt diệu của ta”, là “thể thơ quen thuộc của dân tộc mang cốt cách thuần túy Việt Nam”[67;123]. Riêng Nguyễn Xuân Kính lại có quan điểm: “Ở văn học ngƣời Hán của Trung Quốc không có thể lục bát. Trong lịch sử văn học Việt Nam, lục bát có vai trò đặc biệt và có sức sống mạnh mẽ”[43;215] . Lục bát được phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau. Thơ lục bát ở giai đoạn cuối thế kỉ XV đến trước Truyện Kiều còn trong tình trạng chưa hoàn chỉnh, hình hài chưa cụ thể, còn xô bồ, tự do và có đôi chút lỏng lẻo. Chức năng riêng của thể loại chưa được xác định, nó được dùng theo ngẫu hứng, tự nhiên. Đến giai đoạn sau, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đánh dấu son cho sự mẫu mực, cổ điển của thể loại lục bát. Hai yếu tố gieo vần và phối điệu đã đạt tới sự thống nhất, ổn định. Câu thơ đã xuất hiện hình thức đối. Do có đối nên sự diễn ý thơ đã có thêm khả năng mới, dòng thơ 6 hoặc 8 âm tiết được nhận thức như một tổ hợp hai đơn vị mới, mỗi đơn vị gồm 3 hoặc 4 âm tiết. Vì thế dòng thơ như dồn nén lại, ý thơ trở nên súc tích, trọng lượng hơn . Lục bát thời kỳ nửa sau thế kỷ XIX đến những năm 30 của thế kỷ XX đều đi theo hướng mẫu mực đã được khẳng định chắc chắn từ trong Truyện Kiều, về cơ bản nó không có sự tìm kiếm, lựa chọn nào khác. Cuối thế kỷ XIX, tác dụng của lục bát không kể chuyện được nữa mà chuyển sang nhận chức năng trữ tình làm chức năng chủ yếu. Giai đoạn này chứng tỏ khả năng phong phú của lục bát trong việc biểu đạt nội dung của tác phẩm trữ tình nhỏ. Tiêu biểu cho thể thơ dân tộc ở giai đoạn này là Tản Đà. Lục bát trong Thơ Mới (1932 – 1945) đã có nhiều cách tân đa dạng về cả hình thức thể hiện (về gieo vần, về phối điệu…) cũng như nội dung biểu đạt.

17

Ngoài ra, còn có hiện tượng mới mẻ nhưng lại diễn ra ở khá nhiều tác phẩm, tác giả thời kì này là sự biến đổi về mặt cú pháp trên các dòng thơ. Ranh giới dòng thơ và đơn vị cú pháp không còn trùng khít nữa, biểu hiện ở hai hướng: Hiện tượng vắt dòng: Cổng làng rộng mở. Ồn ào Nông phu lững thững đi vào nắng mai (Cổng làng – Bàng Bá Lân) Hiện tượng chấm câu giữa dòng thơ: Lòng ta dù vỡ tan tành cũng còn thổn thức. Buộc lành cho nhau (Lời tuyệt vọng – Thế Lữ) Hình hài câu thơ lục bát, cách tổ chức dòng thơ cũng có nhiều cách tân lạ mắt. Đó là xếp dòng theo bậc thang: Đƣờng xa ƣ cụ? Quản chi Đi gần hạnh phúc là đi xa đƣờng (Uống rượu với Tản Đà – Trần Huyền Trân) Hay đó là trường hợp ba dòng lục đi với một dòng bát: Bẽ bàng, lá vẫn theo bên Si tình, lá vẫn theo bên Thuyền trôi vẫn quyến sao đêm Hào quang vẫn ngủ êm đềm trong thơ (Tình si – Vũ Hoàng Chương)

18

Trong giai đoạn này, lục bát vẫn khẳng định chức năng trữ tình nhỏ nhưng theo khuynh hướng hiện đại. Đó là bộc lộ trực tiếp cảm xúc và cái tôi cá thể đầy tính chủ quan. Lục bát sau năm 1945 đến nay được thừa hưởng những thành tựu nghệ thuật giai đoạn trước, nên đã lớn lên theo tầm vóc của dân tộc; nó mới mẻ cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Về nhịp, lục bát thời kỳ này có sự ngắt nhịp, phối thanh linh hoạt của Thơ mới và đẩy nó lên cao hơn khi một câu thơ được cắt thành 5 hoặc 6 tiết tấu, trong đó có đến 4 hoặc 5 nhịp 1: Dẫu tôi đã dán mắt nhìn Dẫu tôi nghiêng ngó//soi tìm quẩn quanh Vẫn là mƣời ngón tay anh Vẫn là mắt ấy,//mắt mình chứ ai! Úm ba la!/-hóa…thiên tài Và tôi hóa kẻ nhầm,//sai,//dại,//khờ Vỗ tay,//tôi bỗng sững sờ Bởi yêu//ngƣời-//đã-//dối-//lừa-//đƣợc-//tôi (Xem ảo thuật – Thúc Hà) Về phối điệu, gieo vần, cơ bản là theo quy tắc của truyền thống nhưng lục bát hiện đại có xu hướng cãi lại truyền thống êm đềm của thể loại ở chỗ sử dụng nhiều thanh trắc ở vị trí lẻ. Có một số trường hợp có sự phá cách gieo vần ở tiếng thứ tư của câu bát theo một dụng ý nghệ thuật: Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội xuống bùn tay cấy mạ non” (Bầm ơi – Tố Hữu)

19

Sự cách tân trong vắt dòng, xếp câu thơ theo kiểu bậc thang được thể hiện ở mức độ cao hơn, phổ biến hơn. Sự vắt dòng thơ không phải chỉ trong 2 dòng mà có khi đến 4 dòng, cá biệt lên đến 6 dòng. Câu thơ xếp bậc thang liên tục mỗi chữ một dòng: Chia cho em một đời Thơ một lênh đênh một dại khờ một tôi Chỉ còn cỏ mọc bên trời Một bông hoa nhỏ lặng rơi mƣa dầm… (Chia – Nguyễn Trọng Tạo) Hiện tượng chấm câu giữa dòng cũng phổ biến và tạo được hiệu quả thẩm mỹ cao: Buồn nhƣ trăng đã lên rằm thƣơng ngƣời nhƣ đã trăm năm. Tạ từ (Tạ từ – Nguyễn Trọng Tạo) Về chức năng biểu đạt: thơ lục bát từ sau năm 1945, nhất là từ sau năm 1975 đến nay thật phong phú, vừa trữ tình sâu đậm, vừa đầy những suy nghĩ tỉnh táo. Có thể thấy so với lục bát những giai đoạn trước, lục bát giai đoạn này đa dạng hơn về giọng điệu, phong phú hơn về nội dung. Không chỉ dừng lại việc biểu hiện những buồn thương ngậm ngùi, những nhớ nhung, lục bát giai đoạn này tiến tới biểu đạt những nội dung mới có tính chất suy lý tỉnh

20

Tuần 9. Đặc Điểm Của Ngôn Ngữ Nói Và Ngôn Ngữ Viết

Đọc câu ca dao sau và trả lời câu hỏi : Bây giờ mận mới hỏi đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? a. Nhân vật giao tiếp ở đây là ai? Chàng trai và cô gái vừa đến tuổi cập kê.b. Mục đích giao tiếp là gì? Lời dạm hỏi của chàng trai về tình cảm của cô gái, đồng thời bày tỏ tình cảm của mình.Kiểm tra bài cũ Do nhu cầu giao tiếp, thuở ban đầu loài người trao đổi ý nghĩ, tình cảm với nhau bằng ngôn ngữ nói... Sau này khi sáng tạo ra chữ viết, người ta dùng chữ viết cùng với tiếng nói để thông tin với nhau. .. Chữ viết ra đời đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử văn minh nhân loại, và từ đó hình thành hai dạng : Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viếtĐặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết

12 Cho biết văn bản (1) và (2), văn bản nào sử dụng ngôn ngữ nói, văn bản nào sử dụng ngôn ngữ viết? Lí giải vì sao? – Sắp đến chưa? Người đàn bà chợt hỏi. – Sắp – Nhà có ai không? – Có một mình tôi mấy u. (trích truyện ngắn “Vợ Nhặt”- Kim Lân)

121?Ngôn ngữ viết nhưng được thể hiện ở dạng đọc. – Sắp đến chưa? Người đàn bà chợt hỏi. – Sắp – Nhà có ai không? – Có một mình tôi mấy u. (trích truyện ngắn “Vợ Nhặt”- Kim Lân)

2? Ngôn ngữ nói được thể hiện qua chữ viết. Cần phân biệt đọc và nói thành tiếng. Đôi khi ngôn ngữ nói được ghi lại bằng chữ viết trong văn bản. Ngôn ngữ viết trong văn bản đôi khi được trình bày bằng lời nói miệng. Tránh sự lẫn lộn giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.* Lưu ýIII. GHI NHỚ : (SGK trang 88) Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết có những đặc điểm về hoàn cảnh sử dụng trong giao tiếp, về các phương tiện cơ bản và yếu tố hỗ trợ, về từ ngữ và câu văn. Vì thế cần nói và viết cho phù hợp với các đặc điểm riêng đó.IV. LUYỆN TẬP : Phân tích đặc điểm ngôn ngữ nói thể hiện trong văn bản sau (về từ ngữ và cách nói): Heng chạy theo anh, vừa gọi: – Chông đấy, có chông đấy, không phải như trước đâu, đi theo tui chớ!… Đến làng mặt trời chưa tắt. Thằng bé Heng tháo cây súng chống xuống đất gọi to:– Người già ơi, có khách đấy! Ở mỗi nhà ló ra bốn năm cái đầu ngơ ngác. Những cặp mắt tròn xoe, rồi những tiếng ré lên và tiếng reo:– Giàng ơi! Tnú. anh Tnú, thằng Tnú! Nó về rồi. mày về rồi thật đó, hả Tnú? (trích truyện ngắn “Rừng Xà Nu”- Nguyễn Trung Thành – Văn 12 tập 1) Về từ ngữ :– Các từ hô gọi trong lời nói của nhân vật : +. ơi;. hả– Từ điạ phương, từ tình thái trong lời của nhân vật : + giàng ơi.– Từ đưa đẩy : + .. đấy– Các từ ngữ thường dùng trong ngôn ngữ nói : + . tui;. mày Về cách nói :– Các kết cấu câu trong ngôn ngữ nói : + Tnú. anh Tnú. thằng Tnú + mày về rồi thật đó, hả Tnú?– Có sự phối hợp giữa cử chỉ và lời nói : + những cặp mắt tròn xoe; tiếng ré lên; tiếng reo

Củng cố

So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết?

Giống nhau: Đều sử dụng phương tiện ngôn ngữ để giao tiếp. Khác nhau:Ngôn ngữ nói Ngôn ngữ viết+ Đa dạng về ngữ điệu.+ Từ ngữ mang tính khẩu ngữ và từ địa phương, chưa được gọt dũa.+ Câu tỉnh lược và trùng lặp.+ Sử dụng chữ viết và hệ thống dấu câu để minh họa. + Câu dài, nhiều thành phần và được tổ chức chặt chẽ, mạch lạc.+ Có điều kiện chọn lựa và gọt dũa từ ngữ.Dặn dò – Học thuộc phần ghi nhớ.– Làm bài tập 1, 2, 3 SGK trang 88, 89.– Chuẩn bị bài mới

Bạn đang đọc nội dung bài viết Thơ Và Đặc Điểm Của Ngôn Ngữ Thơ trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!