Đề Xuất 3/2023 # Sở Văn Hóa Thể Thao Và Du Lịch # Top 11 Like | Comforttinhdauthom.com

Đề Xuất 3/2023 # Sở Văn Hóa Thể Thao Và Du Lịch # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Sở Văn Hóa Thể Thao Và Du Lịch mới nhất trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Chức năng

1. Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Hậu Giang là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hậu Giang, có chức năng thực hiện các hoạt động về công tác thông tin, xúc tiến du lịch và dịch vụ lữ hành trên địa bàn tỉnh Hậu Giang;

2. Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Hậu Giang chịu sự chỉ đạo quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đồng thời chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Tổng Cục Du lịch - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Tên giao dịch bằng tiếng Việt: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Hậu Giang.

Tên giao dịch bằng tiếng Anh: Hau Giang Information Tourism And Promotion Center.

Nhiệm vụ, quyền hạn

1. Kết hợp với phòng Nghiệp vụ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện điều tra, đánh giá, phân loại, xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên du lịch của tỉnh theo Quy chế của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch;

2. Thực hiện các biện pháp xúc tiến nhằm bảo vệ, tôn tạo, khai thác, sử dụng hợp lý và phát triển tài nguyên du lịch, môi trường du lịch, khu du lịch, điểm du lịch của tỉnh;

3. Tổ chức Xúc tiến lập hồ sơ đề nghị công nhận khu du lịch địa phương, điểm du lịch địa phương, tuyến du lịch địa phương; công bố sau khi có quyết định công nhận;

4. Tham gia với các cơ quan chuyên môn thẩm định hồ sơ đề nghị cấp có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật;

5. Tham gia thẩm định cấp biển hiệu đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch cho cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch trong khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch;

6. Giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng kế hoạch, chương trình xúc tiến du lịch và tổ chức thực hiện chương trình xúc tiến du lịch, sự kiện, hội chợ, hội thảo, triển lãm du lịch của địa phương sau khi được phê duyệt;

7. Làm đầu mối liên hệ với các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, kết nối với các tour lữ hành đến tỉnh nhằm đẩy mạnh các hoạt dộng du lịch, giới thiệu các sản phẩm du lịch, khu du lịch, di tích lịch sử văn hóa và danh thắng của Tỉnh;

8. Tăng cường hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Hậu Giang;

9. Nghiên cứu thị trường du lịch, tham mưu cho ngành xây dựng sản phẩm du lịch của tỉnh phù hợp với thị hiếu khách du lịch;

10. Tổ chức tập huấn nghiệp vụ du lịch theo chương trình hành động Quốc gia về Du lịch; hoặc phối hợp với các Trường Nghiệp vụ Văn hoá, Thể thao và Du lịch trong và ngoài tỉnh đào tạo, bồi dưỡng theo chuyên ngành;

11. Tổ chức cho công chức, viên chức và các tổ chức, cá nhân kinh doanh trong lĩnh vực du lịch nghiên cứu, học tập về quản lý, đầu tư xây dựng các mô hình tiên tiến trong và ngoài nước;

12. Phối hợp với Cục Xúc tiến Du lịch – Tổng cục Du lịch, VCCI Việt nam tại cần Thơ, Hiệp hội Du lịch Đồng bằng Sông Cửu Long về ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý xúc tiến du lịch của ngành;

13. Tổ chức đón tiếp, bố trí chương trình cho các doanh nghiệp, các tổ chức và cơ quan trong và ngoài nước vào tỉnh tìm hiểu môi trường đầu tư về du lịch, tìm hiểu cơ hội kinh doanh và đầu tư theo kế hoạch được phê duyệt; Tổ chức các tour du lịch lữ hành, bán vé máy bay, vé tàu hoả cho các cá nhân, các đơn vị có nhu cầu đi trong và ngoài nước.

                                                                                                                                                                                                               Tổ chức bộ máy và biên chế

1.Lãnh đạo:

Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Hậu Giang có Giám đốc và các Phó Giám đốc.

a) Giám đốc là người đứng đầu cơ quan, làm việc theo chế độ thủ trưởng, chịu trách nhiệm trước Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hậu Giang và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của đơn vị, đồng thời thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

b)Phó Giám đốc là người tham mưu giúp Giám đốc chỉ đạo một số mặt công tác, chịu trách nhiệm trước Giám đốc và trước pháp luật về thực hiện nhiệm vụ được phân công.

2. Cơ cấu tổ chức:

                  – Phòng Hành chính – Tổng hợp;

– Phòng Thông tin Xúc tiến Du lịch;

– Phòng Dịch vụ Lữ hành.

3. Về biên chế:

Biên chế Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Hậu Giang là biên chế sự nghiệp do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh đề xuất với UBND tỉnh xem xét giao trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, khối lượng công việc của đơn vị theo hàng năm.

Danh sách công chức, viên chức Trung tâm TTXTDL tỉnh:

STT

Họ Tên

Chức vụ

Ghi chú

1

Nguyễn Văn Hoàng

Giám đốc

2

Võ Hoàng Vũ

Phó Giám đốc

3

Trần Văn Đạt

Phó Giám đốc

4

Nguyễn Diễm Trinh

Trưởng phòng HC-TH

5

Lưu Văn Ánh

Phó Trưởng phòng

6

Nguyễn Văn Toàn

Chuyên viên

7

Lê Thị Bé Chúc

Chuyên viên

8

Phạm Thuý Quyền

Chuyên viên

9

Võ Ngọc Giàu

Chuyên viên

10

Nguyễn Bích Ngân

Chuyên viên

11

Bùi Trần Trang Nhã

Chuyên viên

12

Trần Ngọc Diễm

NV Phục vụ

Nền Kinh Tế Du Lịch Việt Nam – Văn Hóa Du Lịch Việt Nam

Nền kinh tế du lịch Việt Nam hiện nay đang chịu khá nhiều ảnh hưởng nặng nề từ bão lũ, và dịch bệnh. Trước tình hình hiện nay thì nước ta đang có dấu hiệu hồi phục và phát triển trở lại sau những biến cố

1. Kinh tế du lịch – chìa khóa phát triển nền kinh tế rộng mở

   1. Ngành kinh tế du lịch là gì?

Kinh tế du lịch – chìa khóa phát triển nền kinh tế rộng mở

Ngành kinh tế du lịch trong những năm mới đây đang ngày càng phát triển bởi những tiềm năng được khai thác triệt để và có đạt kết quả tốt. Kinh tế du lịch được rất nhiều các những người có chuyên môn kinh tế đưa rõ ra khái niệm nhưng có một định nghĩa khá rõ ràng về ngành kinh tế du lịch.

Kinh tế du lịch là một loại hình kinh tế có tình đặc thù riêng biệt của dịch vụ và được xem là ngành công nghiệp không khói. DDây là ngành kinh tế có vai trò khai thác các tài nguyên sẵn có của thiên nhiên nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước tới tham quan.

Ngành kinh tế du lịch bao gồm 2 loại:

Du lịch trong nước: Là loại hình tổ chức và khai thác các địa điểm thăm quan, du lịch dành cho khách du lịch nội địa hoặc những khách du lịch tới thăm quan tại đất nước đó.

Du lịch quốc tế: Là loại hình du lịch mà khách du lịch của quốc gia nội tại có nhu cầu và thực hiện tham quan du lịch tại các đất nước khác.

   2. Đặc điểm của ngành kinh tế du lịch – nền kinh tế du lịch Việt Nam

Đặc điểm của ngành kinh tế du lịch có những đặc điểm du lịch sau:

Tính tổng hợp, liên ngành: ngành kinh tế du lịch hay bất kỳ một ngành nào thuộc cơ cấu nền kinh tế của một đất nước đều có mối liên hệ khắn khít và không thể tách rời khỏi nhau. Ngành kinh tế du lịch cần phải mang tính tổng hợp và gắn kết với các lĩnh vực khác như giao thông, nông nghiệp, công nghiệp, tài nguyên và môi trường, văn hóa hay thể thao,…

Tính xã hội hóa: Ngành kinh tế du lịch có đặc điểm xã hội hóa,

có nghĩa là

 có sức 

thu hút

 mọi thành phần chủ thể kinh tế xã hội tham gia (bao gồm cả những chủ thể 

nội địa

 và chủ thể nước ngoài, tức là 

du khách

 nước ngoài).

Tính xanh và sạch: Toàn cầu đang hướng đến sự toàn cầu hóa tuy nhiên đồng thời vẫn phải đưa ra những biện pháp chống thế giới hóa, nhất định là bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp. Với đặc trưng là ngành công nghiệp không khói, ngành kinh tế du lịch cần phải giữ vững được cái tên như vậy sao cho đúng với thực tế nhất có thể.

Tính ích lợi và hiệu quả kinh tế cao: Ở đây, chúng tôi muốn nói tới chính là ngành công nghiệp gà đẻ trứng vàng, đấy chính là tính lợi ích và đạt kết quả tốt kinh tế mà ngành kinh tế du lịch đem lại cho nền kinh tế, đóng góp vào ngân sách và cấp độ tăng trưởng GDP của một đất nước.

   3.

Vai trò

 của ngành kinh tế du lịch

Ngành kinh tế du lịch được xem là chìa khóa đẩy mạnh nền kinh tế phát triển phong phú hóa, đa phương hóa tại đất nước nước ta. nhất định, ngành kinh tế du lịch có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế ở một vài khía cạnh sau:

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và tốc độ tăng trưởng

Ngân sách nhà nước

Tổng 

vốn đầu tư

Công nghệ 

tối tân

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu

Nền văn hóa phong phú

2. Du lịch

đất nước ta

phát triển vượt bậc – nền kinh tế du lịch Việt Nam

Theo Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lê Quang Tùng (tại Diễn đàn cấp cao du lịch Việt Nam diễn ra ngày 12-9-2019), du lịch nước ta đang ở giai đoạn phát triển nhanh, mạnh với lượng du khách quốc tế tăng trưởng cao. Giai đoạn 2016-2018, tốc độ tăng trưởng trung bình khách du lịch quốc tế đạt 12,8%/năm.

Năm 2016, đất nước ta đón 10 triệu lượt khách quốc tế, tăng 26% so với năm 2015, giúp sức trực tiếp đạt 6,96% vào GDP. Hai năm sau đón 15,5 triệu lượt khách quốc tế, tăng 19,9% so với năm 2017, giúp sức trực tiếp ước đạt 8,5% vào GDP.

nếu như không có diễn biến bất thường, năm 2019 du lịch nước ta sẽ hoàn thành chỉ tiêu được Chính phủ giao, đón 18 triệu lượt khách du lịch quốc tế. Trong 11 tháng của năm 2019, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt xấp xỉ 16,3 triệu lượt, tăng 15,4% so với cùng kỳ, trong khi đó lượng khách quốc tế đến châu Á-Thái Bình Dương tăng khoảng 6%, đến Đông Nam Á tăng khoảng 5%.

3. Tìm hướng đi mới

Đây chính là các phiên họp sâu hơn về những vấn đề đang còn khó khăn, “nút thắt” của ngành du lịch đất nước ta, lôi cuốn nhiều người có chuyên môn nội địa, quốc tế cùng “hiến kế”, chia sẻ kinh nghiệm.

Trong đó tại phiên toàn thể, Diễn đàn tập trung tranh luận về 2 đề tài. Đó là giải pháp để tạo dựng một Việt Nam tươi đẹp, văn hóa đặc sắc, người dân thân thiện mến khách, nhằm sửa đổi và nâng cấp thứ hạng của du lịch Việt Nam trên bảng xếp hạng toàn cầu.

Tạm kết :

Vũ – Tổng hợp, chỉnh sửa (Nguồn tổng hợp : chúng tôi chúng tôi … )

Giải Pháp Phát Triển Du Lịch Di Sản Văn Hóa

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết đánh giá thực trạng phát triển và khai thác các điểm du lịch di sản văn hóa của Việt Nam trong thời gian qua, những lợi ích đạt được, những bất cập, khó khăn và nguyên nhân. Trên cơ sở đó khuyến nghị và đề xuất với các nhà hoạch định phát triển du lịch di sản văn hóa và cộng đồng địa phương một số giải pháp để phát triển du lịch di sản văn hóa Việt Nam một cách bền vững. Về phát triển du lịch di sản văn hóa ở Việt Nam

Việt Nam hiện có 28 di sản được UNESCO công nhận là di sản thế giới, trong đó có 19 di sản văn hóa (DSVH) (bao gồm 06 DSVH vật thể và 13 DSVH phi vật thể thế giới). Ngoài ra, còn có các di sản thiên nhiên và di sản tư liệu thế giới được UNESCO vinh danh. Những di sản này đã góp phần không nhỏ trong việc quảng bá hình ảnh đất nước, truyền bá các giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Không chỉ dừng lại ở giá trị tinh thần mà các di sản thế giới này còn góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội. Theo số liệu thống kê của UNESCO, mỗi năm có khoảng trên 1 tỷ lượt khách du lịch đến tham quan các khu DSVH và thiên nhiên trên thế giới 1.

Những năm qua, sự tăng trưởng số lượng khách du lịch đến với các di sản tại Việt Nam cũng có chuyển biến rõ rệt. Hiện tại, các điểm du lịch DSVH vật thể như: quần thể di tích Cố đô Huế, đô thị cổ Hội An, khu Đền tháp Thánh địa Mỹ Sơn, Thành Nhà Hồ và khu trung tâm di tích Hoàng thành Thăng Long là các điểm du lịch DSVH được nhiều du khách trong và ngoài nước tới tham quan hằng năm.

Trong thời gian đầu khi mới được công nhận DSVH, quần thể Di tích Cố đô Huế chỉ đạt vài chục nghìn lượt khách du lịch, đến nay đã thu hút hàng triệu khách tham quan, du lịch mỗi năm. Cùng với sự gia tăng về số lượng khách là nguồn thu hằng năm từ tiền bán vé tại các di sản này cũng tăng lên. Tổng thu du lịch tăng trên 5 lần, từ 96.000 tỷ đồng năm 2010 lên 720.000 tỷ đồng năm 2019, trung bình tăng 26,9%, đóng góp trên 7 – 8% GDP và tác động lan tỏa trên 13,9% GDP; tạo ra trên 1,2 triệu việc làm trực tiếp và 3,6 triệu việc làm gián tiếp 2.

Nhiều sản phẩm du lịch di sản đã trở thành thương hiệu đặc trưng cho du lịch Việt Nam. Đặc biệt, DSVH còn là yếu tố quan trọng tạo nên sự khác biệt cho hệ thống điểm đến và sản phẩm du lịch của Việt Nam, kết nối và đa dạng hóa các tuyến du lịch xuyên vùng và quốc tế.

Để đạt được những kết quả đáng khích lệ trên là nhờ công tác quản lý, tổ chức hoạt động tại các DSVH. Hầu hết các DSVH hiện đã có Ban Quản lý trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý, điều hành các hoạt động theo Luật và quy định của Nhà nước. Trình độ, năng lực của cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực bảo tồn, phát huy giá trị di sản cũng ngày càng nâng cao qua nhiều khóa đào tạo chuyên sâu. Quy chế quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị DSVH cũng đã được UBND các tỉnh có di sản cho xây dựng, ban hành và thực hiện từ nhiều năm qua.

Tính đến nay, các di sản thế giới đã có quy hoạch tổng thể để bảo tồn, phát huy giá trị như quần thể Di tích Cố đô Huế (giai đoạn 2010 – 2020) với tổng mức đầu tư lên đến 1.284 tỷ đồng. Vịnh Hạ Long; khu di tích Mỹ Sơn; khu phố cổ Hội An và các di sản còn lại như khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long; Thành Nhà Hồ đã triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể. Thông qua đó, hầu hết các di sản đều đã được tu bổ, bảo quản, chống xuống cấp bằng nhiều biện pháp khác nhau, đồng thời tuyên truyền quảng bá các giá trị cũng như ý thức giữ gìn tới cộng đồng 3.

Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác quản lý DSVH vẫn còn nhiều bất cập. Ví dụ, theo Luật Di sản năm 2001 sửa đổi năm 2009 và quy chế quản lý, bảo vệ của di sản Thành Nhà Hồ thì khu vực 1 là vùng bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, một số hộ dân đang sinh sống trong khu vực này vẫn tiến hành xây dựng nhà ở và các công trình dân sinh, gây không ít khó khăn cho công tác quản lý di sản trên địa bàn.

Thực tế, 142 ha của di tích Thành Nội hiện nay vẫn thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phương nhưng nhân dân vẫn canh tác, sản xuất lúa và hoa màu chính trong khu vực bảo vệ đặc biệt của di sản. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới kiến trúc khảo cổ của di sản. Vấn đề khó khăn ở đây là Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ chỉ có thể áp dụng các biện pháp quản lý theo quy chế của Luật Di sản, trong khi đó, các hoạt động dân sinh lại dựa vào Luật Đất đai và Luật Xây dựng: dân có sổ đỏ sở hữu đất đai thì có quyền tự do sử dụng đất đai và xây dựng nhà dưới ba tầng thì không cần phải xin giấy phép. Vậy là cứ mạnh ai nấy làm. Và, công tác quản lý, bảo vệ, bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ vẫn cứ loay hoay trong một bài toán khó 4.

Bên cạnh đó là sự thiếu đồng bộ của các quy chế quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Các Trung tâm/Ban quản lý Di sản chưa tổ chức các cuộc nghiên cứu về công tác quản lý hằng năm để điều chỉnh với tình hình thực tiễn. Một số di sản như ở Hội An, Mỹ Sơn, Huế đến nay vẫn chưa có kế hoạch quản lý tổng hợp theo quy định hướng dẫn thực hiện Công ước Di sản Thế giới 1972. Những di sản khác như: Hoàng Thành Thăng Long, cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn chưa có quy chế quản lý, bảo tồn hoặc đã có nhưng chưa điều chỉnh để phù hợp với thực tế công tác quản lý những năm gần đây…

Kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động du lịch thiếu thốn và thiếu đồng bộ khiến nhiều di sản trở nên kém sức hút, một số di sản khác do hạ tầng và dịch vụ xung quanh vùng di sản phát triển tự do ồ ạt và thiếu quản lý của ngành và chính quyền địa phương đã gây ra sự lộn xộn, thay đổi về mặt cảnh quan xung quanh. Việc xả rác bừa bãi cũng làm môi trường xung quanh di sản bị ô nhiễm nặng nề…

Hiện nay, các DSVH phi vật thể như: tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ; Nhã nhạc cung đình Huế; không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên; ca trù; quan họ Bắc Ninh; hội Gióng ở đền Phù Đổng và Đền Sóc; hát Xoan ở Phú Thọ; nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ; dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh; nghi lễ Kéo co; thực hành tín ngưỡng thờ mẫu tam tứ phủ; nghệ thuật bài chòi Trung Bộ; hát then của người Tày, Nùng, Thái là những DSVH được UNESCO công nhận là DSVH phi vật thể của nhân loại. Mặc dù những năm qua, Đảng và Nhà nước đã hết sức quan tâm trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phi vật thể, nhưng trên thực tế, việc bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH phi vật thể gặp rất nhiều khó khăn trong công tác tổ chức duy trì các hoạt động thực hành cũng như đào tạo, truyền nghề cho các thế hệ kế cận…

Hiện tại, chỉ có một vài điểm tham quan DSVH vật thể trên cả nước có tổ chức các hoạt động thực hành và trình diễn giới thiệu các loại hình văn hóa phi vật thể thông qua các đoàn nghệ thuật hoạt động mang tính xã hội hóa. Các hoạt động trình diễn giới thiệu văn hóa phi vật thể chỉ được thực hiện khi có yêu cầu riêng của du khách (du khách phải trả phí xem biểu diễn) cũng như thông qua các ngày lễ hội truyền thống thường niên và không mang tính liên tục tại các điểm tham quan và trong các trung tâm tổ chức sự kiện giới thiệu du lịch lớn của cả nước… Do vậy, các loại hình DSVH phi vật thể rất bị hạn chế trong việc giới thiệu và quảng bá đối với công chúng và du khách trong và ngoài nước…

Một số đánh giá xét trên góc độ quản lý bền vững và hiệu quả các di sản

Theo đánh giá chung, hiện chỉ có một số rất ít các di sản vật thể và thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận đang thực hiện tốt song hành hai nhiệm vụ bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị di sản.

Những hạn chế, yếu kém trong nội dung quản lý DSVH đã bộc lộ khá rõ, đó là: định hướng quản lý về di sản kết hợp với hoạt động du lịch DSVH chưa rõ ràng; việc triển khai và thực thi các chính sách quản lý bền vững chưa sâu sát. Chưa gắn kết được vai trò trung tâm của cộng đồng dân cư địa phương với các di sản…; chính sách về quản lý và phát triển du lịch DSVH vẫn còn chung chung; việc kiểm tra, giám sát thực hiện quản lý còn lỏng lẻo. Công tác đánh giá và điều chỉnh chính sách không được triển khai hoặc có triển khai nhưng chỉ mang tính hình thức và không được đánh giá chi tiết, không bổ sung những thiếu sót kịp thời.

Công tác quản lý tại các di sản được UNESCO công nhận còn rất lỏng lẻo, chưa có các kế hoạch chi tiết và cụ thể trong việc duy tu bảo dưỡng, bảo tồn các DSVH vật thể. Trên thực tế, vấn đề khó khăn đặt ra hiện nay là lấy nguồn kinh phí ở đâu ngoài nguồn ngân sách hạn hẹp để duy tu, bảo dưỡng, tôn tạo và quản lý các DSVH vật thể? cũng như việc duy trì, bảo tồn và thực hành văn hóa phi vật thể.

Ngoài ra, việc khó khăn nhất hiện nay là chưa có phương hướng cụ thể để kêu gọi đầu tư các nguồn lực xã hội hóa vào các DSVH vật thể và phi vật thể để vừa có thể gìn giữ vừa có thể phát huy giá trị DSVH nhằm thu hút và phát triển các hoạt động du lịch. Hơn nữa, vai trò của cộng đồng địa phương tại nơi có các di sản chưa được các cấp chính quyền và các cơ quan chức năng quản lý di sản quan tâm và chú trọng, dẫn đến việc phát triển du lịch có thể bị chống đối hoặc phát triển mang tính tự phát, mạnh ai người đấy làm, hoạt động du lịch thiếu ý thức gây ra tổn hại đối với môi trường tự nhiên xung quanh di sản.

Có thể thấy, việc chuyển đổi các giá trị DSVH thành các sản phẩm du lịch nhằm thu hút du khách trong và ngoài nước để tự tái tạo ra nguồn ngân sách phục vụ cho chính nó hiện chưa được đầu tư triệt để, thiếu các nguồn lực và hợp tác triển khai. Vẫn còn tình trạng buông lỏng trong công tác chỉ đạo triển khai quy hoạch; kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch nói chung và du lịch DSVH nói riêng. Vai trò của Ban Chỉ đạo về phát triển du lịch DSVH còn mờ nhạt.

Ngoài ra, năng lực quản lý nhà nước về du lịch DSVH của các cấp chính quyền, địa phương nơi có di sản còn yếu kém. Chưa có chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp có thương hiệu mạnh trong lĩnh vực du lịch DSVH; chưa chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các hộ gia đình gắn với phát triển du lịch DSVH nói riêng và du lịch nói chung.

Một số giải pháp phát triển du lịch di sản văn hóa tại Việt Nam

Một là, xây dựng mục tiêu phát triển du lịch DSVH cho cộng đồng văn hóa xã hội tại địa phương nơi có các DSVH vật thể và phi vật thể. Những mục tiêu trọng tâm phổ biến nhất sẽ là:

Ở cấp độ môi trường: giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường do du lịch (văn hóa) đem lại. Cho phép cộng đồng giới hạn sự chấp nhận có thể thay đổi môi trường của họ. Thu hút người dân địa phương lập kế hoạch và quản lý các tác động đến môi trường. Chứng minh cho người dân địa phương về sự phát triển du lịch văn hóa trong không gian chung của họ sẽ góp phần khôi phục những tác động xấu đến môi trường như là một phần của quá trình bảo tồn các DSVH. Xây dựng các chính sách bắt buộc nhằm bảo đảm các lợi ích do du lịch DSVH đem lại sẽ được trực tiếp đóng góp vào sự tái tạo môi trường và bảo tồn các di sản.

Ở cấp độ kinh tế: lồng ghép cộng đồng vào phát triển kinh tế du lịch địa phương bằng các biện pháp đào tạo, khuyến khích về tài chính, tạo các vườn ươm doanh nghiệp… Mở ra một tổ chức tiếp thị điểm đến địa phương hoặc liên kết cộng đồng với tổ chức tiếp thị điểm đến để tạo ra các lợi thế quy mô về kinh tế cho người dân. Phân tích các lợi thế kinh doanh về du lịch theo không gian và chức năng cho phép số lượng các doanh nghiệp có thể tối đa hưởng lợi về mặt kinh tế đối với di sản. Lập kế hoạch và theo dõi sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ một cách cẩn thận để tránh việc bỏ giữa chừng trong 3 năm đầu kể từ sau khi tổ chức hoạt động du lịch DSVH vật thể hoặc phi vật thể tại địa phương tiến hành.

Ở cấp độ chất lượng cuộc sống: bảo đảm quyền truy cập của người dân địa phương vào các cơ sở giải trí, di sản và phát triển du lịch như một phần của việc du lịch hóa các di sản thế giới. Quản lý các mẫu truy cập để bảo đảm khả năng tiếp cận của người dân địa phương đối với các hệ thống giao thông và các dịch vụ khác tại địa phương. Sử dụng sự hiện diện của khách du lịch để tạo ra các sự kiện và dịch vụ giải trí trong ngưỡng kinh tế tối thiểu. Giảm thiểu bất kỳ sự xao lãng tiềm năng nào đến cuộc sống hàng ngày. Giảm thiểu tối đa và loại bỏ toàn bộ những tác động gây ô nhiễm từ khách du lịch tới các di sản thế giới nói riêng và các di sản địa phương nói chung.

Ba là, các bước và thực tiễn trong quá trình xây dựng tham gia của cộng đồng địa phương trong việc phát triển du lịch tại DSVH. Xây dựng sự tham gia của cộng đồng trong việc phát triển du lịch tại DSVH thế giới nói riêng và DSVH nói chung, đòi hỏi sự tích cực tham gia bắt đầu từ giai đoạn lập kế hoạch cho đến khi thực sự vận hành địa điểm này như một điểm thu hút du lịch văn hóa. Các giai đoạn này như là một phần của quy trình lập kế hoạch. Việc thực hiện đúng sẽ bảo đảm lợi ích của cộng đồng được tích hợp tốt trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển du lịch DSVH.

Hà Văn Siêu. Đổi mới trong quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam. Website Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch, ngày 07/02/2013. 2.Du lịch Việt Nam– Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. 3. Vũ Tuấn Anh.Viện Kinh tế Việt Nam. Khai thác tiềm năng thiên nhiên và giá trị văn hóa truyền thống để phát triển du lịch cộng đồng ở Măng Đen. Hà Nội, 2013. 4. Michael M. Coltman.Tiếp thị du lịch. NXB Trẻ TP. Hồ Chí Minh, 1991. 5. Tourism Management at UNESCO World Heritage Sites (2018). edited by Silvia De Ascaniis, Maria Gravari-Barbas and Lorenzo Cantoni. 6. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa.

ThS. Nguyễn Phúc LưuĐại học Kinh tế – Trường Đại học Quốc gia

Du Lịch Trách Nhiệm Với Điểm Đến Di Sản Văn Hóa Tp. Hcm

Đặt vấn đề

Trong một tóm tắt của 15 năm thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc (Millennium Development Goals – MDDs ) giai đoạn 2000 – 2015 và tiếp nối là các mục tiêu phát triển bền vững (Sustainable Development Goals – SDGs) giai đoạn 2016-2030 đã chỉ ra rằng việc bảo tồn và phát huy các giá trị về di sản văn hóa là trách nhiệm của mỗi cá nhân và tổ chức để tạo nên sự phát triển bền vững cho giá trị quốc gia và dân tộc. Theo Liên hiệp quốc, có 164 tiêu chí để áp dụng cho 17 SDGs, trong đó mục tiêu 11.4 cho rằng việc bảo tồn di sản văn hóa sẽ mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân và ổn định văn minh đô thị.

Cụ thể là:

Lồng ghép di sản văn hóa với vấn đề phát triển đô thị bền vững

Áp dụng chính sách nhằm tăng cường nhận thức về tầm quan trọng của các thể chế địa phương và hệ thống kiến thức truyền thống với vai trò là nguồn lực quan trọng và cần thiết cho sự phát triển bền vững

Xây dựng khung pháp lý về việc lên kế hoạch và quản lý thực hiện đảm bảo sự rõ ràng, minh bạch, sử dụng kết hợp di sản và loại hình khu dân cư truyền thống với vai trò là thành tố quan trọng cho khả năng định cư và phát triển bền vững.

Phát triển các loại công cụ, phương tiện và các chỉ dẫn chi tiết nhằm giúp đỡ các thành phố/đô thị thực hiện các mục tiêu trên.

Bài viết sẽ tập trung nghiên cứu về vai trò của di sản văn hóa và lợi ích của du lịch di sản văn hóa trong việc đảm bảo trách nhiệm xã hội của toàn dân tộc Việt Nam mang lại một hình thái du lịch có trách nhiệm trong di sản văn hóa nhằm góp phần tăng trưởng nền kinh tế quốc gia theo mục tiêu phát triển bền vững của thế giới.

Các điển cứu của bài viết sẽ được phân tích, tổng hợp và các kỹ thuật làm phát triển có trách nhiệm được ứng dụng trong phạm vi các di sản văn hóa tại thành phố Hồ Chí Minh theo tiêu chí về Quy hoạch điểm di sản văn hóa theo hướng bền vững; Thuyết minh và truyền thông có trách nhiệm các giá trị di sản văn hóa; Bảo tồn di sản văn hóa và quản lý tác động của du lịch; Phát triển sản phẩm di sản văn hóa có trách nhiệm.

Du lịch di sản văn hóa mang lại những lợi ích về những trải nghiệm văn hóa và cho phép trao đổi văn hóa. Loại hình này còn góp phần phục hồi các sản dựng phẩm thủ công truyền thống và các di sản văn hóa phi vật thể, nâng cao mức sống của khu vực, tạo ra các cơ hội việc làm mới và đóng góp cho sự phát triển kinh tế địa phương. Bên cạnh đó, du lịch đi sản văn hóa còn bảo vệ và phục hồi các di sản, xây dựng niềm tự hào của cộng đồng.

Tuy nhiên, trong bối cảnh du lịch Việt Nam tăng trưởng nhanh chóng qua các năm thì du lịch di sản văn hóa đang gặp phải những thách thức như phân chia kinh tế – xã hội dựa vào văn hóa, thương mại hóa văn hóa, xói mòn các truyền thống văn hóa, thay thế cư dân địa phương, mất bản sắc văn hóa, xung đột về quyền sử dụng đất, thiệt hại đến các điểm du lịch và cơ sở vật chất và mất đi tính chân thực

Do vậy, để thực hiện du lịch có trách nhiệm đối với loại hình di sản văn hóa, các bên tham gia cần triển khai kế hoạch hành động có ưu tiên và chọn lọc để vừa khai thác và bảo tồn di sản văn hóa một cách bền vững.

1. Các bước trong việc áp dụng kế hoạch quản lý tích hợp di sản văn hóa

Chính phủ: Cung cấp hạ tầng cơ sở cho các điểm đến, an toàn và an ninh cho du khách, các chính sách thuận lợi và các kế hoạch thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, nắm bắt và quản lý doanh thu, tiếp thị các điểm đến.

Doanh nghiệp: Tiếp thị điểm di sản và điểm đến du lịch, cung cấp hàng hóa và dịch vụ nhằm hỗ trợ du lịch tại các điểm di sản, tư vấn, hướng dẫn và hỗ trợ phát triển sản phẩm và xây dựng năng lực

Các cơ quan phát triển: Hỗ trợ kỹ thuật để phát triển vật chất, hỗ trợ tài chính cho việc khôi phục / nghiên cứu, xây dựng năng lực di sản văn hóa

Cộng đồng địa phương: Ảnh hưởng tới các quyết định về quản lý và sử dụng điểm di sản, việc làm / nguồn nhân lực tại điểm di sản, hoạt động của các doanh nghiệp du lịch hoặc văn hóa, đóng góp vào nghiên cứu di sản văn hóa, quy hoạch và phát triển, các đại sứ văn hóa và tình nguyện viên

1.2 Lợi ích của việc quy hoạch di sản văn hóa tuân theo các nguyên tắc du lịch có trách nhiệm

Đảm bảo các loại hình du lịch được phát triển đem lại thu nhập cho người dân địa phương và bảo vệ các lợi ích

Đảm bảo tốt hơn cho hoạt động của các điểm di sản văn hóa đáp ứng được các cơ hội và xu hướng thị trường

Giảm các tác động đối với môi trường địa phương và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân địa phương

2. Tiêu chí để quy hoạch cơ sở đối với các di tích văn hóa

Bảo tồn trước hết cần mang lại cho các thành viên cộng đồng và du khách những trải nghiệm có trách nhiệm và sự hiểu biết về di sản cũng như nền văn hóa của cộng đồng đó.

Mối quan hệ giữa các điểm di sản và du lịch mang tính động và có thể dẫn đến các xung đột giá trị. Điều này cần được quản lý theo cách bền vững cho các thế hệ hiện tại và trong tương lai

Cộng đồng và người dân địa phương cần tham gia vào quy hoạch bảo tồn và du lịch tương lai. Việc bảo tồn và quy hoạch du lịch cho các điểm di sản cần đảm bảo rằng trải nghiệm của du lịch

Các hoạt động du lịch và bảo tồn cần mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương khách là đáng giá, thỏa mãn và thú vị.

Các chương trình xúc tiến du lịch cần bảo vệ và tăng cường các đặc tính riêng của di sản văn hóa và thiên nhiên.

3. Nguyên tắc du lịch bền vững trong di sản văn hóa

3.1 Thuyết minh và truyền thông có trách nhiệm các giá trị di sản văn hóa

Theo nghiên cứu tình hình thực tế thì việc các điểm di sản văn hóa thường kém coi trọng việc thuyết minh và truyền thông đầy đủ về các giá trị di sản văn hóa, điều này có thể dẫn đến giảm nhận thức về tầm quan trọng và ý nghĩa của di sản văn hóa, hạn chế các cơ hội tăng cường hiểu biết giao thoa văn hóa; giảm hỗ trợ cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa; làm tăng tính thương mại hóa và cụ thể hóa nền văn hóa. Do vậy, kết quả cuối cùng là giảm sự hài lòng của du khách, thông tin truyền miệng tiêu cực, và giảm lượng khách quay trở lại tham quan.

Để giải quyết vấn đề này một cách triệt để thì việc truyền thông và thuyết minh có trách nhiệm cần tuân thủ nguyên tắc sau:

Thông tin và giáo dục cho du khách về tầm quan trọng của điểm di sản văn hóa. Cung cấp thông tin đơn giản về các giá trị và tầm quan trọng của di sản văn hóa giúp thúc đẩy sự hiểu biết và tôn trọng giao thoa văn hóa. Truyền thông về ý nghĩa văn hóa có thể được thực hiện thông qua các biển báo, vật trưng bày, tờ thông tin, và bản đồ. Các trung tâm thông tin du khách/ các trung tâm thuyết minh cũng rất hữu dụng trong việc này và truyền tải các thông điệp chính xác và chân thực.

Thông điệp truyền thông phải chính xác, chân thực . Hoạt động tiếp thị kém về các giá trị của điểm di sản văn hóa, có thể làm mất đi giá trị, ý nghĩa và làm giảm sự toàn vẹn của di sản văn hóa. Các thông điệp truyền thông chính xác, đích thực giúp thúc đẩy hiểu biết và sự tôn trọng tránh thương mại hóa văn hóa trong truyền thông. Tuyên truyền về văn hóa của cộng đồng địa phương và các di sản văn hóa phải được tôn trọng và chính xác. Việc thương mại hóa văn hóa địa phương nên được tránh không chỉ ở các sản phẩm bán ra mà còn ở ngôn ngữ sử dụng và các thông điệp tuyên truyền. Thương mại hóa văn hóa có thể dẫn đến mất đi ý nghĩa ban đầu. Sự tham gia và quyết tâm của địa phương về cách thức giải thích văn hóa của họ là rất quan trọng.

3.2 Bảo tồn di sản văn hóa thông qua các giá trị bền vững của du lịch.

Khi khai thác các điểm du lịch về di sản văn hóa cần tuân thủ các chỉ số phát triển bền vững cân đối giữa yếu môi trường, xã hội và kinh tế như sau:

Bảng 1

3.3 Phát triển sản phẩm du lịch di sản văn hóa có trách nhiệm

Các điểm du lịch di sản văn hóa thành công cần trực tiếp kết nối với các giá trị, nhu cầu và sở thích của thị trường mục tiêu

Phát triển các sản phẩm di sản văn hóa có trách nhiệm đảm bảo hai thác và sử dụng các nguồn lực sẵn có một cách bền vững, xác định những liên kết với các cơ hội thị trường khả thi, và đảm bảo sự hài lòng cũng như lợi ích cho cộng đồng địa phương

Việc thực hiện du lịch có trách nhiệm đối với di sản văn hóa cần tuân thủ các nguyên tắc sau:

Đảm bảo các sản phẩm di sản văn hóa khả thi về thương mại và được kết nối với thị trường. Phát triển một sản phẩm du lịch không có nghĩa là du khách sẽ tới. Việc theo sát quá trình phát triển một sản phẩm tốt giúp đảm bảo cho việc kinh doanh, sản phẩm hay dịch vụ đó có thể cạnh tranh một cách hiệu quả và sinh ra lợi nhuận.

Tóm tắt

Sau khi đã đưa ra các chỉ số đánh giá về giá trị của việc kết hợp phát triển du lịch có trách nhiệm đối với bảo tồn di sản văn hóa và sự phát triển đô thị toàn diện và bền vững, bước tiếp theo chúng ta sẽ phát triển các hoạt động định hướng dành cho các phương thức kết hợp giữa các Mục tiêu và Đối tượng khác nhau theo mức độ ưu tiên về chọn lựa các điểm di sản có tính thích hợp cao trong phát triển thương mại mà vẫn đảm bảo tính bền vững trong khai thác. Các đề xuất trên nhằm mục đích kết hợp văn hóa với sự phát triển bền vững và toàn diện tại điểm di tích trên phạm vi thành phố Hồ Chí Minh trên cả phương diện xã hội lẫn kinh tế. Phương thức kết hợp như trên sẽ bao gồm việc kết hợp giữa văn hóa với kế hoạch phát triển đô thị, phát triển du lịch, phát triển cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, nhà ở giá rẻ/nhà ở xã hội, giảm thiểu rủi ro thiên tai, bảo tồn các giá trị di sản vô hình và hữu hình; đồng thời cải thiện các tiêu chí đánh giá các ảnh hưởng đa chiều từ việc bảo tồn tích hợp với việc “đánh giá tầm ảnh hưởng của di sản văn hóa tích hợp”.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Sở Văn Hóa Thể Thao Và Du Lịch trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!