Cập nhật nội dung chi tiết về Một Số Về Thẻ Ngân Hàng mới nhất trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
1. Khái niệm Thẻ ngân hàng (thường được gọi tắt là “thẻ”): Là phương tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực hiện giao dịch thẻ theo các điều kiện và điều khoản được các bên thoả thuận.
Các tổ chức phát hành thẻ hiện nay bao gồm các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và một số công ty tài chính.
2. Phân loại thẻ ngân hàng
Thẻ ngân hàng được phân loại như sau:
– Theo phạm vi lãnh thổ sử dụng thẻ, thẻ bao gồm: thẻ nội địa và thẻ quốc tế. Việc phân loại thành thẻ nội địa hay thẻ quốc tế là dựa trên phạm vi chủ thẻ có thể sử dụng thẻ, còn về mặt tính năng thì cả thẻ nội địa hay thẻ quốc tế đều có thể là thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng hoặc thẻ trả trước.
+ Thẻ nội địa được sử dụng để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ và sử dụng các dịch vụ khác trong nước.
+ Thẻ quốc tế được sử dụng để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ và sử dụng các dịch vụ ở cả trong nước và ở nước ngoài. Các thương hiệu thẻ quốc tế đã được các ngân hàng tại Việt Nam phát hành là Visa, MasterCard, JCB, American Express, UP. Khi có nhu cầu thanh toán trong các chuyến công tác, du lịch hoặc phục vụ cho học tập, mua sắm ở nước ngoài thì thẻ quốc tế là một lựa chọn tiện dụng và hiệu quả cho khách hàng.
Thẻ nội địa
Thẻ quốc tế
Tuy nhiên, hiện nay, thông qua kết nối của tổ chức chuyển mạch thẻ trong nước là Banknetvn với các tổ chức chuyển mạch ở nước ngoài, thẻ nội địa của một số ngân hàng ở Việt Nam phát hành đã có thể sử dụng để giao dịch tại ATM và các điểm chấp nhận thẻ ở một số nước khác. Điều này cho thấy sự phát triển về mặt công nghệ, kỹ thuật và các quan hệ hợp tác, liên kết của hệ thống thanh toán thẻ của Việt Nam với thế giới, góp phần ngày càng nâng cao chất lượng dịch vụ thẻ cho các chủ thẻ Việt Nam.
– Theo nguồn tài chính đảm bảo cho việc sử dụng thẻ, thẻ bao gồm: thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước.
+ Thẻ ghi nợ (debit card) là loại thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi số tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ thẻ mở tại một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép nhận tiền gửi không kỳ hạn
Chiếc thẻ loại này ban đầu được biết đến là thẻ rút tiền mặt, với tính năng rút tiền mặt từ tài khoản thanh toán của chủ thẻ tại các máy giao dịch tự động (ATM), vì thế loại thẻ này thường được gọi là thẻ ATM. Thay vì trước kia, chủ thẻ phải đến quầy giao dịch ngân hàng, xếp hàng theo thứ tự để làm thủ tục rút tiền thì giờ đây chủ thẻ chỉ cần đến máy ATM (của ngân hàng mình hoặc các ngân hàng có liên kết), thực hiện thao tác đút thẻ vào máy, nhập mã số bảo mật PIN, nhập số tiền cần rút và nhận tiền. Chính vì tiện ích “giao dịch tự động” này mà chủ thẻ có thể thực hiện việc rút tiền mặt vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày, ngay cả ngoài giờ làm việc, trong các ngày nghỉ, lễ, tết.
Thẻ ghi nợ
Từ chiếc thẻ ATM với tính năng đơn giản là rút tiền mặt, các ngân hàng đã phát triển chiếc thẻ ghi nợ với thêm nhiều tính năng đa dạng hơn. Vẫn tích hợp đầy đủ các tiện ích của thẻ ATM như: rút tiền, kiểm tra số dư, chuyển khoản…, thẻ ghi nợ hiện nay còn được sử dụng để mua hàng hoá tại siêu thị hoặc thanh toán hoá đơn tại các nhà hàng; đặc biệt có thể sử dụng trong thanh toán các giao dịch trực tuyến trên internet (đặt mua vé máy bay, mua hàng trên các trang thương mại điện tử…) với thao tác thực hiện đơn giản, dễ dàng. Trên thực tế hiện nay, một số người đồng nhất khái niệm thẻ ghi nợ với “thẻ ATM”, điều này là không chính xác.
Với đặc điểm được phát hành dựa trên tài khoản thanh toán của khách hàng, “có bao nhiêu, tiêu bấy nhiêu” nên chủ thẻ hoàn toàn chủ động chi tiêu trong phạm vi số tiền trong tài khoản của mình; tuy nhiên, chủ thẻ cũng cần lưu ý việc quản lý số dư trong tài khoản để chắc chắn rằng các giao dịch của mình được thực hiện.
+ Thẻ tín dụng (credit card) là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được cấp theo thoả thuận với tổ chức phát hành thẻ.
Thẻ tín dụng
Thông thường, thẻ tín dụng được ngân hàng cấp cho chủ thẻ với một hạn mức nhất định dựa trên cơ sở đánh giá và thẩm định uy tín tín dụng, mức lương hàng tháng của chủ thẻ hoặc số tiền ký quỹ hay tài sản mà chủ thẻ đảm bảo tại ngân hàng. Với đặc điểm là “chi tiêu trước, trả tiền sau”, thẻ tín dụng hỗ trợ đắc lực cho chủ thẻ thực hiện nhanh chóng các giao dịch thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ hay trên các website thương mại điện tử. Định kỳ đến một ngày nhất định theo quy định của từng ngân hàng, ngân hàng gửi một bảng kê cụ thể các khoản chi tiêu trong tháng trước đó của chủ thẻ tín dụng và yêu cầu chủ thẻ thanh toán. Chủ thẻ có thể chọn thanh toán số tiền trước thời hạn ghi trong thông báo, khi đó chủ thẻ không phải trả lãi. Nếu không, chủ thẻ có thể lựa chọn trả số tiền tối thiểu, phần còn lại có thể trả từ từ và sẽ bị tính lãi theo quy định của ngân hàng.
Các ngân hàng thường phân thẻ tín dụng theo hạng nhằm quản lý đối tượng khách hàng như thẻ chuẩn (standard), thẻ vàng (gold), thẻ bạch kim (platinum)… Chủ thẻ sử dụng thẻ tín dụng có phân hạng càng cao thì được hưởng càng nhiều ưu đãi và dịch vụ chất lượng hơn.
+ Thẻ trả trước (prepaid card) là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong phạm vi giá trị tiền được nạp vào thẻ tương ứng với số tiền mà chủ thẻ đã trả trước cho tổ chức phát hành thẻ. Điều đó có nghĩa là, khi chủ thẻ có một chiếc thẻ trả trước thì có thể “nạp tiền” vào thẻ qua các kênh của ngân hàng và chi tiêu trên số tiền đã nạp đó.
Thẻ trả trước
Thẻ trả trước bao gồm thẻ trả trước xác định danh tính (thẻ trả trước định danh) và thẻ trả trước không xác định danh tính (thẻ trả trước vô danh). Điểm khác biệt cơ bản về tính năng giữa thẻ trả trước vô danh và thẻ trả trước định danh là sau lần nạp tiền lần đầu, thẻ trả trước vô danh sẽ không được nạp thêm tiền và chỉ được sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, số dư trên một thẻ trả trước vô danh không được vượt quá năm triệu đồng Việt Nam theo quy định hiện hành.
Các loại thẻ trả trước hiện nay chủ yếu sử dụng để thanh toán chi phí mua xăng, dầu, dịch vụ giải trí, dịch vụ giao thông – vận tải và thanh toán trên các website thương mại điện tử.
3. Những thông tin chủ yếu của một thẻ ngân hàng
Hình ảnh mặt trước của thẻ
Hình ảnh mặt sau của thẻ
Thẻ ngân hàng thông thường được thiết kế là một miếng nhựa (plastic) có kích thước tiêu chuẩn (thường là 8,5*5,5 cm) và có một băng từ ở mặt sau lưu trữ thông tin về chủ thẻ, cũng có thể có chíp điện tử để lưu trữ các thông tin, dữ liệu khác. Trên chiếc thẻ nhựa thường có tên hoặc logo của tổ chức phát hành thẻ, tên chủ thẻ, ngày hiệu lực của thẻ, số thẻ, logo của tổ chức thẻ quốc tế (như Visa, MasterCard, JCB) hoặc tổ chức chuyển mạch thẻ trong nước (như Banknetvn). Chủ thẻ cần lưu ý ký chữ ký của mình vào dải trống được thiết kế trên mặt sau của tấm thẻ. Ngoài ra, trên thẻ còn có một số thông tin hữu ích khác như số điện thoại chăm sóc khách hàng, website của tổ chức phát hành thẻ để chủ thẻ có thể liên hệ trong các trường hợp cần thiết.
Trên thế giới hiện nay đã xuất hiện loại thẻ phi vật lý (thẻ ảo) mà tổ chức phát hành thẻ cấp cho chủ thẻ để giao dịch qua internet, điện thoại di động mà không cần in ra thẻ vật lý (thẻ nhựa thông thường). Tại Việt Nam cũng đã có một vài ngân hàng thí điểm thử nghiệm loại thẻ này.
Mã số xác định chủ thẻ (Personal Identification Number – viết tắt là PIN) là mã số mật của cá nhân được tổ chức phát hành thẻ cung cấp cho chủ thẻ, sử dụng trong một số giao dịch thẻ để chứng thực chủ thẻ. Mã số này do chủ thẻ chịu trách nhiệm bảo mật. Chủ thẻ cần lưu ý là không nên đặt PIN theo ngày sinh, số điện thoại,… để tránh người khác có thể đoán biết.
Trong trường hợp bị mất thẻ và bị lộ PIN hoặc nghi ngờ bị lộ PIN, chủ thẻ nên gọi ngay đến số điện thoại đường dây nóng (hotline) của ngân hàng phát hành thẻ để thông báo sự cố và được hỗ trợ giải quyết, hạn chế tối đa rủi ro phát sinh nếu người khác lợi dụng thẻ để rút tiền.
Máy giao dịch tự động (Automated Teller Machine – hay viết tắt là ATM) đã trở thành từ ngữ thông dụng cùng với thẻ ngân hàng khi xuất hiện ở Việt Nam. ATM là thiết bị mà chủ thẻ có thể sử dụng để gửi, nạp, rút tiền mặt, chuyển khoản, tra cứu thông tin giao dịch thẻ hoặc sử dụng các dịch vụ khác.
Cùng với số lượng thẻ phát hành tăng lên nhanh chóng trong các năm gần đây, mạng lưới ATM cũng được các ngân hàng đầu tư trang bị, nâng cấp, kết nối liên thông giữa các hệ thống của các ngân hàng để đáp ứng nhu cầu giao dịch của chủ thẻ trên cả nước. Một máy ATM thế hệ mới có thể bao gồm nhiều tính năng hỗ trợ chủ thẻ thực hiện các giao dịch như: rút tiền mặt, nộp tiền mặt, chuyển khoản, thanh toán hóa đơn (điện, nước, điện thoại, thẻ tín dụng), gửi tiền tiết kiệm, tra cứu thông tin (số dư, tỷ giá, địa điểm đặt máy ATM, sao kê…), và cả dịch vụ rút tiền mặt mà không cần phải dùng thẻ.
Đơn vị chấp nhận thẻ là các tổ chức, cá nhân chấp nhận thanh toán hàng hoá và dịch vụ bằng thẻ. Các đơn vị chấp nhận thẻ thường là các nhà hàng, siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng,… nơi đặt các thiết bị chấp nhận thẻ (như máy POS, EDC). Đặc biệt, gần đây các ngân hàng và đối tác công nghệ đã cung cấp ra thị trường giải pháp điểm chấp nhận thanh toán thẻ trên thiết bị di động (mPOS), hỗ trợ các đơn vị chấp nhận thẻ có thể chấp nhận thanh toán qua thiết bị điện thoại di động cả thẻ quốc tế và thẻ nội địa của nhiều ngân hàng. Giải pháp mPOS được thiết kế phù hợp với nhiều loại hình kinh doanh và dịch vụ, từ các công ty, nhà hàng, tổ chức cung ứng hàng hóa, dịch vụ có giao hàng và thu tiền tại nhà, đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Việc mở rộng của hệ thống các đơn vị chấp nhận thẻ và kết nối liên thông mạng lưới thiết bị chấp nhận thẻ của các ngân hàng trên toàn quốc thời gian qua đã giúp chủ thẻ có thể thanh toán một cách đơn giản và thuận tiện hơn. Cụ thể là chủ thẻ của các ngân hàng có thể thanh toán bằng thẻ thông qua POS mà một ngân hàng trang bị tại điểm chấp nhận thẻ mà không cần phải dùng tiền mặt cũng như không cần có nhiều loại thẻ của nhiều ngân hàng như trước đây. Bản thân các ngân hàng cũng không cần cùng lúc lắp đặt thiết bị chấp nhận thẻ riêng của mình tại một đơn vị chấp nhận thẻ, gây lãng phí không cần thiết.
Hình ảnh chủ thẻ thực hiện thao tác thanh toán bằng thẻ tại máy POS
Hiện nay, nhiều ngân hàng phối hợp với các đơn vị chấp nhận thẻ như các cửa hàng, siêu thị điện máy, trung tâm thương mại, công ty dịch vụ du lịch, giải trí,… đã dành thêm nhiều ưu đãi cho khách hàng khi thanh toán bằng thẻ, góp phần khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Các chủ thẻ cũng cần lưu ý là họ có quyền sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ mà không bị phân biệt giá so với trường hợp thanh toán bằng tiền mặt, không phải trả thêm tiền hoặc phụ phí cho đơn vị chấp nhận thẻ.
5. Một số lưu ý để giao dịch an toàn với thẻ ngân hàng
Nguyên tắc chung:
– Khi nhận thẻ, Quý khách cần thực hiện kiểm tra các thông tin trên thẻ để đảm bảo đúng với các thông tin Quý khách đã đăng ký.
– Đổi ngay mã số cá nhân (PIN) đối với các thẻ ghi nợ mà ngân hàng cung cấp tại máy ATM để kích hoạt thẻ.
– Không ghi mật khẩu lên thẻ hoặc gần nơi để thẻ để tránh việc lộ thông tin và bị lợi dụng. Luôn bảo mật thẻ và PIN của thẻ trong mọi trường hợp: Không đưa thẻ của mình cho bất cứ người nào khác trừ những nhân viên của ngân hàng hoặc các nhân viên thu ngân của ĐVCNT được chỉ định để làm việc với Quý khách;
– Không tiết lộ các thông tin in trên hai mặt trước và sau thẻ cũng như số PIN cho bất cứ ai. Quý khách là người duy nhất được biết các thông tin đó.
– Khi thực hiện giao dịch sử dụng PIN, Quý khách nên lưu ý: Đảm bảo không ai nhìn thấy số PIN khi thực hiện giao dịch (bằng cách che bàn phím). Nên đổi số PIN thường xuyên. Nếu nhập sai PIN 03 lần liên tiếp, thẻ sẽ bị khóa để đảm bảo an toàn.
Nguyên tắc bảo quản thẻ:
– Không bẻ cong thẻ, gấp thẻ;
– Không để thẻ gần những thiết bị điện tử có thể phát sóng, từ tính mạnh có thể làm hỏng dữ liệu trên thẻ;
– Tránh làm xước băng từ mầu đen ở mặt sau của thẻ;
– Giữ thẻ cẩn thận và để thẻ ở vị trí có thể giúp Quý khách sớm phát hiện việc mất thẻ.
Nguyên tắc khi giao dịch tại máy ATM: Quan sát kỹ máy ATM trước khi thực hiện giao dịch, đặc biệt tại các vị trí: khe đọc thẻ, bàn phím, camera. Nếu nhận thấy máy ATM có các thiết bị lạ hoặc có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào, Quý khách ngừng giao dịch và thông báo ngay cho các ngân hàng qua hotline của các ngân hàng. Nên dùng tay che bàn phím khi nhập mật khẩu PIN. Cần đợi máy chi tiền ra, không nên bỏ đi ngay để tránh trường hợp máy ATM nhả tiền chậm và người khác có thể lấy được số tiền này.
Nguyên tắc khi giao dịch thẻ để thanh toán trên Internet: Chỉ sử dụng thông tin thẻ để thanh toán tại các website uy tín, không nên sử dụng máy tính công cộng khi thực hiện các giao dịch thanh toán online. Đọc kỹ các chính sách của đơn vị trước khi đồng ý thanh toán. Luôn nhớ Thoát/Đăng xuất khỏi website sau khi kết thúc giao dịch.
Một Số Thông Tin Về Tỷ Số Lợi Ích
B/C là ký hiệu viết tắt của một tỷ số có tên đầy đủ là “tỷ số lợi ích – chi phí” hay trong tiếng Anh còn được gọi là “Benefit – cost – ratio”. Đây là một tỷ số được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực tài chính của doanh nghiệp. Cụ thể đó là được dùng để phân tích về các mối quan hệ lợi ích – chi phí trong tổng thể các chi phí tương đối và các lợi ích nhất định của một dự án, công trình nào đó của doanh nghiệp khi được đề xuất thực hiện.
Hiểu theo một cách khác thì tỷ số lợi ích – chi phí B/C chính là một tỷ số để có thể đánh giá được về các hiệu quả của tài chính doanh nghiệp ở các công trình, dự án. Tỷ số này được tính thông qua các giá trị hiện tại của toàn bộ thu nhập so với các giá trị hiện tại của các chi phí cùng với tỷ suất chiết khấu nhất định trong dự án, công trình doanh nghiệp.
Giả sử như một doanh nghiệp A muốn thực hiện đánh giá về giá trị lợi nhuận của một dự án về vấn đề cải tạo các khu chung cư trong thời gian tới. Theo đó, doanh nghiệp đã nghiên cứu và quyết định sẽ cho thuê các thiết bị máy móc cần thiết với tổng chi phí là 50.000 USD thay vì việc phải bỏ ra một khoản chi phí rất lớn để mua mới chúng. Trong đó, tỷ lệ lạm phát sẽ là 2%, đồng thời kết quả của việc cải tạo đó sẽ có thể giúp cho doanh nghiệp tăng lợi nhuận hàng năm thêm khoảng 100.000 USD trong vòng 3 năm tới.
Và dựa theo các thông số đó, doanh nghiệp sẽ có thể dễ dàng tính được về tỷ số lợi ích – chi phí cho dự án mình chuẩn bị thực hiện, từ đó sẽ đánh giá được cụ thể về các giá trị lợi ích như thế nào và đưa ra quyết định đúng đắn, chính xác nhất cho việc đầu tư, kinh doanh.
2. Đặc điểm của tỷ số lợi ích – chi phí B/C
Hiện nay, tỷ số lợi ích – chi phí B/C thường được sử dụng phổ biến trong vấn đề tài chính, ngân sách vốn của các doanh nghiệp, giúp họ có thể phân tích cũng như tính toán được về tổng thể của toàn bộ số tiền mà mình chuẩn bị đầu tư cho một hay nhiều dự án mới. Mặc dù vậy thì việc phân tích về các lợi ích – chi phí đó thường khá khó để có thể đưa ra được các kết quả chính xác. Vì trên thực tế có rất nhiều những giả định hay sự thiếu chắc chắn mà doanh nghiệp khó có thể định lượng được. Cũng chính bởi vậy mà hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều thường có khá nhiều tỷ lệ B/C cho một dự án của mình.
Theo đó, nếu như tính ra tỷ số lợi ích – chi phí lớn hơn hay bằng 1 thì có thể đánh giá công trình, dự án đó sẽ mang lại hiệu quả về tài chính. Tuy nhiên, nếu như trong trường hợp mà có nhiều dự án công trình khác nhau và cần lựa chọn thì tỷ số B/C sẽ trở thành tiêu chuẩn để có thể xếp hạng các công trình theo một nguyên tắc nhất định và lựa chọn các công trình có tỷ số lợi ích – chi phí cao hơn.
Tuy nhiên, tỷ số B/C lớn hay nhỏ cũng còn phụ thuộc vào từng quan niệm về vấn đề lợi ích – chi phí của những nhà phân tích, đánh giá tài chính cho doanh nghiệp. Do đó, khi áp dụng tỷ số chi phí – lợi ích B/C thì doanh nghiệp cũng cần phải nắm rõ về quan niệm, tiêu chí đánh giá của các nhà phân tích đó như thế nào rồi mới đưa ra quyết định có tin tưởng lựa chọn hay không.
Hiện nay, việc tính tỷ số lợi ích – chi phí B/C còn được áp dụng cho một số công trình công cộng bởi đặc thù của các công trình này chính là lợi nhuận có được khá thấp mà thời gian hoàn vốn lại dài. Tuy nhiên thì lợi ích có được từ các công trình này cho các doanh nghiệp cũng tương đối cao.
Việc làm Tài chính tại Hồ Chí Minh
3. Cách tính tỷ số lợi ích – chi phí B/C như thế nào?
Để tính tỷ số lợi ích – chi phí B/C, hiện nay, các doanh nghiệp cần thực hiện tính toán các thông số đó là:
Tỷ số lợi ích – chi phí B/C = Hiện giá của lợi ích / hiện giá của chi phí = PV(B)/PV(C).
Công thức cụ thể để tính tỷ số B/C như sau:
Cụ thể trong đó, các thông số như sau:
– PV (B) – hiện giá của lợi ích
– PV (C) – hiện giá của chi phí
– B t – thu nhập của doanh nghiệp trong năm thứ t
– C t – chi phí của doanh nghiệp bỏ ra trong năm thứ t
– r – lãi suất của các chi phí
– n – số năm mà doanh nghiệp thực hiện đầu tư cho dự án
Và cũng theo ví dụ trên, khi mà chi phí ban đầu của doanh nghiệp là 50.000 USD, khoản lợi nhuận dự kiến thu được trong 3 năm là 100.000 USD thì giá trị hiện tại ròng của doanh nghiệp đầu tư cho dự án sẽ được tính như sau:
NPV (giá trị hiện tại ròng) = [100.000/(1 + 0,02) 1] + [100.000/(1 + 0,02) 2] + [100.000/(1 + 0,02) 3] = 288.388 USD.
Như vậy thì tỷ số lợi ích – chi phí B/C sẽ được tính theo công thức trên là:
Theo kết quả thu được là tỷ số B/C = 5,77 thì điều đó đồng nghĩa rằng lợi ích mà doanh nghiệp ước tính đạt được đang lớn hơn rất nhiều so với những khoản chi phí mà họ bỏ ra để đầu tư cho dự án. Kéo theo đó thì doanh nghiệp nên thực hiện đầu tư cho dự án này để có thể thu về một nguồn lợi nhuận khủng cho mình.
Việc làm Tài chính tại Hà Nội
4. Một số quy tắc đánh giá công trình bằng tỷ số lợi ích – chi phí B/C
Trong quá trình thực hiện đánh giá về tỷ số lợi ích – chi phí B/C cho các dự án công trình thì tùy thuộc vào từng dự án, quy mô, mức độ hay tính chất khác nhau mà doanh nghiệp sẽ cần phải áp dụng theo các quy tắc nhất định. Cụ thể, với 2 loại dự án công trình là đầu tư độc lập và loại trừ lẫn nhau, doanh nghiệp cần đảm bảo theo các nguyên tắc sau:
4.1. Đối với các dự án công trình đầu tư độc lập
Với các công trình mà doanh nghiệp chỉ đầu tư độc lập riêng biệt, không có bất kỳ sự so sánh để loại trừ nào thì sẽ cần áp dụng theo nguyên tắc cụ thể đó là:
– Các dự án công trình mà có tỷ số lợi ích – chi phí B/C lớn hơn hay bằng 1 thì có thể chấp nhận và tiến hành đầu tư.
– Còn với các dự án công trình mà có tỷ số lợi ích – chi phí B/C nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp nên loại bỏ bởi lợi ích sẽ không có.
Một ví dụ về trường hợp này để các bạn hiểu rõ hơn về tỷ số lợi ích – chi phí đó là: trong 3 dự án công trình chuẩn bị được đầu tư và kết quả sau khi tính tỷ số lợi ích – chi phí B/C là:
+ Dự án công trình 1: Chi phí PV là 1 triệu USD, lợi ích PV là 1,5 triệu USD và tỷ số B/C = 1,5/1 và cho ra kết quả là 1,5.
+ Dự án công trình 2: Chi phí PV là 9 triệu USD, lợi ích PV là 10,4 triệu USD và tỷ số B/C = 10,4/9 và cho ra kết quả là 1,15.
+ Dự án công trình 3: Chi phí PV là 2,5 triệu USD, lợi ích PV là 3,1 triệu USD và tỷ số B/C = 3,1/2,5 và cho ra kết quả là 1,24.
Thông qua 3 kết quả trên thì có thể thấy cả 3 dự án công trình đều khả quan và có thể chấp nhận đầu tư được bởi đều lớn hơn 1. Theo đó, doanh nghiệp sẽ có thể tiến hành thực hiện cho các dự án và mang lợi nhuận cao về cho mình.
4.2. Đối với các dự án công trình loại trừ nhau
Cũng có rất nhiều trường hợp doanh nghiệp cần phải cân nhắc cũng như lựa chọn giữa các dự án công trình hay còn được hiểu các là các dự án này sẽ phải loại trừ nhau dựa vào các kết quả tỷ số lợi ích – chi phí B/C. Tuy nhiên thì với trường hợp này, doanh nghiệp vẫn có khả năng đưa ra các quyết định lựa chọn sai bởi như phân tích ở trên, kết quả về tỷ số lợi ích – chi phí B/C không hoàn toàn là chính xác 100%. Do đó, các doanh nghiệp cũng cần cân nhắc một cách kỹ lưỡng, cẩn thận khi đầu tư cho các dự án trong trường hợp này.
Ví dụ về trường hợp các dự án công trình phải loại trừ nhau dựa vào tỷ số lợi ích – chi phí B/C cũng với 3 dự án công trình như sau:
+ Với dự án công trình 1: Chi phí PV là 1 triệu USD, lợi ích PV là 1,5 triệu USD và tỷ số B/C = 1,5/1 và cho ra kết quả là 1,5 còn NPV = 0,5 triệu USD.
+ Với dự án công trình 2: Chi phí PV là 9 triệu USD, lợi ích PV là 10,5 triệu USD và tỷ số B/C = 10,4/9 và cho ra kết quả là 1,15 còn NPV = 1,24 triệu USD.
+ Với dự án công trình 3: Chi phí PV là 2,5 triệu USD, lợi ích PV là 3,1 triệu USD và tỷ số B/C = 3,1/2,5 và cho ra kết quả là 1,24 còn NPV = 1 triệu USD.
Như vậy, với 3 kết quả trên thì cả 3 dự án đều khả thi và có thể thực hiện đầu tư, tuy nhiên, trong trường hợp cần lựa chọn 1 dự án nhất định thì cần dựa thêm cả vào kết quả NPV (giá trị hiện tại ròng) của các dự án công trình thì mới đảm bảo được sự chính xác và tránh đưa ra các quyết định đầu tư sai lầm cho doanh nghiệp.
Thẻ Atm Gồm Mấy Số? Phân Biệt Số Thẻ Atm Và Số Tài Khoản Ngân Hàng
Thẻ ATM thường dùng để rút tiền, chuyển khoản và thanh toán hóa đơn. Mặc dù việc chuyển khoản tới thẻ ATM hiện nay khá phổ biến nhưng vẫn có nhiều khách hàng còn nhầm lẫn số thẻ ATM và số tài khoản dẫn tới chuyển tiền sai. Vậy thẻ ATM gồm mấy số? Cách phân biệt số thẻ ATM và số tài khoản ngân hàng như thế nào?
Thẻ ATM gồm mấy số? Cấu trúc số thẻ ATM
Có rất nhiều khách hàng đang dùng thẻ ATM nhưng không biết đâu là số thẻ, đâu là số tài khoản, nó có bao nhiêu số và cấu trúc như thế nào
Thẻ ATM có bao nhiêu số?
Theo quy định hiện nay thì thẻ ATM được phát hành sẽ có hai loại như sau:
Loại 1: 16 số
Loại 2: 19 số (hai ngân hàng có thẻ ATM 19 số là Vietcombank và VIB)
Cấu trúc số thẻ ATM
Số thẻ ATM là dãy số được in trực tiếp trên thẻ ATM ngân hàng. Thông thường thẻ ATM có 16 hoặc 19 chữ số. Các chữ số này được hình thành theo cấu trúc 4 phần, trong đó mỗi phần thể hiện 1 đặc điểm riêng biệt:
4 chữ số đầu: Mã ấn định của nhà nước hay còn được gọi là mã BIN
2 chữ số tiếp là mã ngân hàng
4 chữ số sau là số CIF của khách hàng đó
Các chữ số cuối còn lại dùng để phân biệt tài khoản của khách hàng.
Số 36 là mã thẻ ngân hàng Vietcombank
12345678 là số CIF của khách hàng
111 là dãy số ngẫu nhiên phân biệt các tài khoản của một khách hàng.
Việc quy định thống nhất cách ghi số thẻ ATM giúp các ngân hàng có thể liên thông với nhau qua hệ thống giao dịch liên ngân hàng. Nhờ vậy, những người dùng thẻ có thể chuyển khoản cho nhau mà không phải chờ đợi giao dịch liên ngân hàng theo cách truyền thống.
Riêng với trường hợp của Vietinbank thì dãy BIN là 6201 60, mặc dù vậy khi dùng dịch vụ chuyển tiền qua thẻ thì vẫn kết nối bình thường.
Số thẻ ATM được dùng khi nào?
Với ngân hàng, số thẻ ATM được dùng để quản lý các giao dịch thông qua thẻ do người dùng sử dụng. Với khách hàng thì số thẻ ATM có thể được sử dụng trong các trường hợp sau:
Thanh toán hóa đơn online: trên các trang thương mại điện tử, website hoặc app bán hàng online, đến bước thanh toán bạn có thể lựa chọn thanh toán bằng loại thẻ ATM phù hợp. Lúc này bạn cần điền số thẻ cùng với mã pin hoặc số CVV ghi trên thẻ để hoàn tất bước thanh toán.
Kết nối và nạp tiền vào các ví điện tử: Hầu hết các ví điện tử như MoMo, Moca, VinID đều yêu cầu khách hàng kết nối ví với thẻ ATM để nạp và rút tiền vào ví chi tiêu. Ở bước liên kết với thẻ ngân hàng bạn sẽ phải điền số thẻ tương ứng và mã pin của thẻ ATM.
Chuyển khoản: số thẻ cũng được sử dụng để chuyển tiền vào thẻ khi cần. Chuyển tiền theo số thẻ có thể được thực hiện tại cây ATM, ngân hàng điện tử hoặc phòng giao dịch ngân hàng.
Phân biệt số thẻ ATM và số tài khoản ngân hàng
Số tài khoản ngân hàng và số thẻ ATM là 2 thông tin cơ bản mà bạn cần phải ghi nhớ để thực hiện các giao dịch chuyển tiền. Bạn có thể phân biệt số thẻ ATM và số tài khoản ngân hàng như sau:
Số thẻ ATM
Số thẻ ATM là dãy số được in nổi trực tiếp trên mặt trước thẻ ATM khách hàng được cấp. Có 2 loại thẻ: 16 số và 19 số. Mỗi khách hàng sẽ được cung cấp một dãy số riêng trên thẻ. Trong dãy số thẻ, bốn chữ số đầu gọi là BIN (Bank Identification Numbers), đây là số ấn định chung cho tất cả các ngân hàng. Hai chữ số tiếp theo trong dãy số thẻ tượng trưng cho ngân hàng nơi bạn mở tài khoản. Bốn chữ số sau đó là số mã khách hàng CIF (Customer Information File).
Mỗi ngân hàng khác nhau sẽ có quy định về số tài khoản khác nhau. Có ngân hàng quy định số tài khoản gồm 8 chữ số, có ngân hàng quy định gồm 9, 12,13 hoặc 14, 15 số.
Vậy về cơ bản, số tài khoản được dùng trong giao dịch chuyển khoản, chuyển tiền nhiều hơn so với số thẻ ATM.
Ví dụ:
Ngân hàng Agribank có STK gồm 13 số
Ngân hàng Vietcombank có STK 13 số
Ngân hàng Techcombank có STK gồm 14 số
Ngân hàng BIDV có STK gồm 14 số
Ngân hàng Vietinbank có STK gồm 12 số
Ngân hàng Sacombank có STK gồm 12 số
Ngân hàng Đông Á Bank có STK gồm 12 số
Ngân hàng Bắc Á Bank có STK gồm 15 số…
Cấu trúc số tài khoản:
Mỗi ngân hàng đều có quy tắc riêng về cấu trúc số tài khoản ngân hàng. Số các chữ số trong số tài khoản ngân hàng thường từ 9 đến 14 ký tự.
Ví dụ: Số tài khoản ngân hàng Vietcombank gồm 13 chữ số, trong đó 3 chữ số đầu tiên đại diện cho một chi nhánh ngân hàng như:
001 là Sở giao dịch
002 là chi nhánh Hà Nội
007 là chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh…
Ví dụ:
– Ngân hàng Vietinbank: Số tài khoản với cấu trúc bao gồm 711A ở đầu và 8 số phía sau. Ví dụ: Số tài khoản 711A 987654321
– Ngân hàng Techcombank: Số tài khoản gồm 14 số, trong đó 3 số đầu đại diện cho 1 chi nhánh ngân hàng. Ví dụ: Số tài khoản 102 12345678 001 (Trong đó: 102 là chi nhánh TP.HCM).
Do đó: Ta có thể phân biệt số thẻ là dãy số được in nổi trực tiếp trên mặt trước thẻ ATM. Còn số tài khoản ngân hàng là dãy số mà ngân hàng cấp ngay khi khách hàng đăng ký mở thẻ hoặc mở tài khoản ngân hàng.
Nên dùng số thẻ hay số tài khoản khi chuyển tiền
Chuyển tiền qua số thẻ và số tài khoản đều có ưu và nhược điểm riêng:
Chuyển tiền qua số thẻChuyển tiền qua số tài khoảnChỉ cần số thẻ và hoặc tên ngân hàng là chuyển tiền được. Bạn không cần điền tên chủ thẻ, chi tiết tên chi nhánh mở thẻ
Trường hợp chuyển tiền thường khác ngân hàng sẽ yêu cầu điền đầy đủ thông tin như số tài khoản, họ tên, chi nhánh mở thẻ.
Chuyển tiền nhanh hoặc chuyển tiền trong cùng hệ thống ngân hàng cũng chỉ cần số tài khoản.
Không phải ngân hàng nào cũng hỗ trợ chuyển tiền qua số thẻ.
Tất cả các ngân hàng đều có dịch vụ chuyển tiền qua số tài khoản cùng hệ thống hoặc khác hệ thống ngân hàng.
Hiện nay thì với sự phát triển của ngân hàng điện tử, chuyển tiền qua số tài khoản trở lên tiện dụng hơn và được nhiều người lựa chọn hơn. Tuy nhiên bạn có thể linh động lựa chọn hình thức chuyển tiền nào miễn sao tiện lợi và phù hợp với tình hình thực tế của mình.
Lưu ý khi giao dịch qua số thẻ và số tài khoản
Không phải ngân hàng nào cũng cho phép chuyển tiền qua thẻ. Chỉ có những ngân hàng thuộc hệ thống Napas mới có thể chuyển khoản qua số thẻ cho nhau.
Số thẻ cần được bảo mật. Bởi vì kẻ gian chỉ cần biết được số thẻ của bạn thì có thể sẽ đánh cắp được thông tin thẻ và thực hiện các giao dịch bất hợp pháp.
Hiện tại có 27 ngân hàng thuộc hệ thống Napas, đó là:
Vietcombank, VietinBank, Agribank, ACB, Sacombank, Eximbank, Techcombank, MB, VIB, VPBank, SHB, HDBank, TPBank, OceanBank, LienVietPostBank, ABBank, VietABank, BacABank, BaoVietBank, Navibank, OCB, GPBank, MHB, Hongleong Bank, SeaBank, PGBank, DongABank.
Với các thông tin trên thẻ ATM được bật mí qua bài biết này phần nào đã giúp quý khách hàng có thêm nhiều kiến thức bổ ích về Thẻ ATM gồm mấy số, cách phân biệt số thẻ ATM và số tài khoản… như thế nào? Mọi thắc mắc xin vui lòng liên hệ để được giải đáp thắc mắc TẠI ĐÂY.
Giải đáp thắc mắc và tư vấn miễn phí!!!
Một Số Thông Tin Về Kính Thiên Văn Không Gian Hubble Hst
Một số thông tin về kính thiên văn không gian Hubble HST
Kính Thiên văn Không gian Hubble là kính quang học bay trong quỹ đạo to nhất hiện nay. Với tấm gương phản chiếu đường kính 2,4 mét và được ở cao hơn tầng khí quyển cho phép nó chụp những hình rõ nét. Hệ thống quang học của nó đã được sửa chữa năm 1993. Các nhà thiên văn dùng HST để nghiên cứu khoa học, ước lượng tuổi và thành phần cấu tạo của vũ trụ, những thiên hà mà trước kia chưa từng biết tới, sự hiển nhiên của các lỗ đen ở giữa các thiên hà, sự tạo các vùng sao và sự hiểu biết hơn về quá trình vật lý trong vũ trụ chúng ta. Một kính thiên văn không gian cho thế hệ tiếp theo (NGST Next Generation Space Telescope) có thể sẽ được phóng lên khoảng năm 2007.
Trích quyển “Trinh Xuan Thuan, un astrophysicien” (Phạm Văn Thiều dịch)
Spitzer đã có những đóng góp rất cơ bản cho lý thuyết về môi trường giữa các vì sao và về sự tiến hóa động của các đám sao cầu.
Chính ông là cha đẻ của kính thiên văn không gian mang tên Hubble, được tàu con thoi đưa lên quỹ đạo vào tháng 4 năm 1990. Ngay từ cuối những năm 1940, ông đã nêu ra ý tưởng đưa lên quỹ đạo bên trên bầu khí quyển của Trái Đất một kính thiên văn lớn có khả năng bắt được cả ánh sáng hồng ngoại, nhìn thấy lẫn tử ngoại. Ý tưởng này được đề xuất sớm gần chục năm, trước khi vệ tinh đầu tiên được phóng lên Vũ trụ vào năm 1957. Ban đầu không ai tin là điều đó có thể làm được. Spitzer phải tốn hàng chục năm mới thuyết phục được cộng đồng các nhà thiên văn về ích lợi của dự án và thuyết phục được Quốc hội Mỹ đồng ý cấp kinh phí. Ban đầu, lẽ ra kính phải có một gương đường kính 3m, nhưng do hạn chế về kinh phí, nên cuối cùng rút lại chỉ còn 2,4m.
Ngay cả khi đường kính của nó chỉ còn 2,4m, thì riêng việc kính thiên văn nặng tới 11 tấn và dài 11m này quay quanh Trái Đất và bên trên bầu khí quyển đã là một chuyện thần kỳ rồi. Nó có cho những thông tin mới về Vũ trụ không?
Hubble không hoạt động ngay lập tức như người ta hy vọng. Sau khi đưa lên quỹ đạo, các nhà thiên văn mới nhận thấy rằng gương của cái kỳ quan công nghệ thực sự này có một sai hỏng nghiêm trọng. Kính thiên văn nhìn bị nhòe! Điều này đã gây nên sự thất vọng kinh khủng. Tuy bị mắc tật cận thị như vậy, nhưng Hubble cũng đã gửi về cho chúng tôi hề thông tin về các thiên thể sáng như các hành tinh trong hệ Mặt Trời hoặc các sao và các thiên hà gần. Việc xử lý nhờ những kỹ thuật tin học tinh xảo ở mặt đất đã cho phép sửa được tật cận thị đó của kính Hubble. Tuy nhiên đối với các thiên thể sáng yếu, chẳng hạn như các hệ hành tinh quay quanh những ngôi sao khác hay các thiên hà ở rất xa thì nó hoàn toàn không thu bắt được. May thay nó đã không bị NASA bỏ rơi. Vào cuối năm 1993, trong một sứ mạng ngoạn mục của tàu con thoi không gian, các nhà du hành Vũ trụ của NASA, trong một vũ điệu siêu thực không trọng lượng khi quay quanh Trái Đất cứ 90 phút một vòng và ở cách mặt đất hàng trăm kilômét, đã lắp đặt thành công một hệ thống thấu kính để sửa tật cận thị của kính Hubble. Nói nôm na là họ đã đeo kính cận cho nó! Giờ đây kính Hubble đã có thể nhìn Vũ trụ với tất cả độ nét tuyệt vời của nó. Hubble cho phép chúng ta bội thu các phát minh kỳ diệu – những phát minh sẽ làm thay đổi quan niệm của chúng ta về thế giới.
So với những kính thiên văn được đưa lên quỹ đạo trước nó, thì kính Hubble có những ưu điểm gì?
Những kính thiên văn được đưa lên quỹ đạo trước Hubble đều có hai nhược điểm. Trước hết là chúng quá nhỏ (đường kính gương của chúng thường không quá 1m) và sau nữa là chúng có tuổi thọ rất hạn chế vì các bộ pin mặt trời cung cấp năng lượng cho chúng đều ngừng hoạt động sau một hoặc hai năm. Đối với kính Hubble không có hai vấn đề đó: nó có một gương đường kính tới 2,4m và do đó trong khoảng thời gian nhất định đã cho nó thu được nhiều ánh sáng hơn. Chính vì vậy nó nhìn được những đối tượng sáng yếu hơn, tức ở xa hơn và do đó nhìn được sớm hơn. Người ta hy vọng rằng nó có thể lần ngược lại theo thời gian tới thời điểm khoảng 2-3 tỷ năm sau Big Bang, khi mà các thiên hà còn đang trong quá trình ra đời. Còn về tuổi thọ thì ít nhất nó cũng tồn tại được khoảng 15 năm. Lại nữa, nó được đưa lên quỹ đạo ở khoảng cách mà tàu con thoi của Mỹ có thể lui tới được và nếu như những dụng cụ trên đó có hư hỏng theo thời gian hoặc đã lạc hậu về mặt công nghệ thì các nhà du hành Vũ trụ có thể sẽ tới thay thế. Người ta dự liệu cứ ba năm lại lên bảo dưỡng một lần. Thậm chí người ta còn có thể đưa nó trở về Trái Đất để thay bằng một kính hoàn toàn mới.
Nói thế nhưng chúng ta cũng cần trân trọng những vệ tinh nhỏ, chúng cho phép chúng ta khám phá Vũ trụ gần và hé mở với chúng ta nhiều điều mới lạ. Tôi đặc biệt nghĩ tới sự thám hiểm hệ Mặt Trời được thực hiện bởi hai con tàu thăm dò Voyage 1 và 2. Chúng đã hé lộ với chúng ta về những phong cảnh lạ kỳ trên bốn hành tinh Thổ, Mộc, Thiên Vương và Diêm Vương cùng với gần 60 mặt trăng. Chúng cũng cho loài người một quan niệm mới về tính đơn nhất và sự mong manh của hành tinh xanh tuyệt đẹp của chúng ta, hành tinh duy nhất có sự sống.
Đối với những người trần thế bình thường thì việc đưa một kính thiên văn lớn như một đầu máy xe lửa lên không gian chỉ để mà nhìn các ngôi sao thôi là một điều kỳ quặc khó hiểu. Còn ông – một nhà vật lý thiên văn – ông có thể lý giải thế nào với chúng tôi về ích lợi của công việc đó?
Tôi đã từng nói với ông rằng các thiên thể phát tất cả các ánh sáng tạo nên cái mà người ta gọi là “phổ điện từ” và mắt ta chỉ cảm nhận được ánh sáng thấy được, ánh sáng được mang bởi một hạt có tên là photon và được đặc trưng bởi năng lượng của hạt đó. Theo trật tự năng lượng giảm dần trước hết ta có tia gamma, tia X rồi sau đó tới tia tử ngoại – các photon có năng lượng cao của nó bị khí quyển chặn lại, điều này thật may mắn cho chúng ta vì chúng rất độc hại đối với sự sống – rồi sau nữa là những photon của ánh sáng thấy được, photon hồng ngoại và cuối cùng là những photon sóng cực ngắn và sóng vô tuyến. Chỉ có ánh sáng thấy được và sóng vô tuyến là không bị bầu khí quyển của Trái đất hấp thụ. Mà để quan sát được Vũ trụ với toàn bộ sự giàu có của nó, thì nhà thiên văn cần tới tất cả các loại ánh sáng hiện hữu. Nếu chúng ta chỉ giam mình trong vùng ánh sáng thấy được thì điều này cũng chẳng khác gì mắt ta chỉ nhạy với ánh sáng màu xanh. Chúng ta sẽ thấy biển xanh nhưng sẽ không thấy được màu tím nhạt của những quả táo trên các bức tranh tĩnh vật của Cezanne hay màu đỏ như lửa của cảnh hoàng hôn. Và khi đó chúng ta sẽ có một cái nhìn rất không đầy đủ về thế giới.
Một kính thiên văn trong không gian có khả năng thu được tất cả các loại ánh sáng mà ta vừa liệt kê ở trên. Về nguyên tắc, nó nhìn cũng rõ nét hơn các kính thiên văn đặt trên mặt đất nhiều. Chuyển động của các nguyên tử trong khí quyển làm nhiễu động quỹ đạo của ánh sáng và làm cho các hình thu được bị nhòe. Trong khi đó, kính Hubble, do vượt lên trên bầu khí quyển, nên nó nhìn được Vũ trụ với tất cả độ nét tuyệt vời của nó, cũng hệt như một người cận thị đột nhiên được đeo kính đúng số. Lấy giả dụ, nếu một kính thiên văn đặt trên mặt đất có thể nhìn rõ một mẩu 4cm ở khoảng cách 4km thì kính Hubble có thể nhìn thấy nó ở khoảng cách 10 lần xa hơn, tức là ở khoảng cách 40km. Điều này tương đương với việc phân biệt được hai đèn hậu của một xe ô tô ở khoảng cách 4000km, tức là xa cỡ 2/3 bán kính Trái Đất. Việc nhân lên gấp bội khả năng nhìn được các chi tiết rất nhỏ là cực kỳ quan trọng đối với việc nghiên cứu một số thiên thể. Đặc biệt là các quasar – những đối tượng ở gần biên giới của Vũ trụ. Tên của loại thiên thể này bắt nguồn từ từ “quasistar” – có nghĩa là tựa sao. Chúng đặc và nhỏ tới mức nhìn tựa như các ngôi sao. Nếu người ta có thể chụp được chi tiết hơn phần trung tâm của chúng, người ta có thể sẽ có một ý niệm về “con quỷ” cung cấp một năng lượng khổng lồ ngay trong lòng của chúng để phát xạ ra ngoài.
Một ví dụ khác là về nguyên tắc, kính thiên văn Hubble có thể nhìn thấy các hành tinh quay quanh những ngôi sao gần nhất, tới hàng chục năm ánh sáng. Sự phát hiện ra các hành tinh này sẽ là một cú hích ngoạn mục đối với những chương trình nghiên cứu các trí tuệ ngoài Trái Đất.
Cuối cùng, ưu điểm lớn thứ ba của kính thiên văn không gian là nó có thể quan sát được các tinh tú có độ sáng rất yếu, do ở bên ngoài bầu khí quyển bầu trời hoàn toàn tối đen. Trong khi đó, ở mặt đất, ngay tại những đài thiên văn tách biệt hẳn với ánh sáng chói lòa của các đô thị, thì bầu trời cũng không hoàn toàn tối đen, bởi vì trong khí quyển Trái Đất có những hạt bụi, chúng tương tác với ánh sáng mặt trời và làm cho bầu trời sáng nhờ nhờ. Trong không gian, kính Hubble có thể nhìn được những thiên thể sáng yếu hơn tới 40 lần. Mà như ta đã biết nhìn thấy vật sáng yếu hơn tức là nhìn được xa hơn, do đó thể tích Vũ trụ mà ta quan sát được nhờ kính Hubble tăng lên 100 lần. Nói một cách khác, nếu các kính thiên văn trên mặt đất hiện chỉ quan sát được 5% thể tích của Vũ trụ thì kính thiên văn không gian cần phải quan sát được 80%. Bây giờ chắc là ông hiểu được tâm trạng vui sướng tới mức nào của các nhà thiên văn khi những nhà du hành của NASA sửa được tật cận thị của kính Hubble!
Trích bài “Vietsciences phỏng vấn GS Trịnh Xuân Thuận” ngày 29/05/04
Vietsciences: Giáo sư có bị hạn chế khi dùng kính thiên văn không, nhất là kính thiên văn không gian Hubble?
GS TXThuận: Vì thế giới chỉ có một kính thiên văn Hưbble, nên chỉ 13% số lần để nghị đầu tiên được chấp nhận. Nếu mình không nằm trong số 13% đó thì phải chờ đến năm sau. Mỗi lần đuợc 24 quỹ đạo của Hubble, mà mỗi quỹ đạo của Hubble là 1 tiếng rưỡi. Trong 24 quỹ đạo này Hubble chỉ nhìn thiên hà I Zwicky 18 và chụp hình đó cho riêng tôi thôi, không ai được quyền thấy. Tôi xác định và phân tích trong một năm. Sau một năm thì mọi người có quyền xử dụng những hình ảnh I Zwicky 18 này. Nhưng theo dự đoán thì chỉ còn 4 năm nữa là Hubble sẽ không còn sử dụng được nữa tức là tôi chỉ được dùng 4 lần nữa thôi.
Vietsciences: Tại sao họ không sửa nữa kính thiên văn Hubble?
GS TXThuận: Từ khi shuttle Columbia bị nổ, quốc hội cấm NASA dùng shuttle vả chăng không ai dám lên đó sửa. Nếu như bị nổ lần nữa NASA sẽ sập tiệm.
***
Tin tức vể vụ sửa chữa kính HST
Từ ngày xảy ra tai nạn Columbia, các tàu vũ trụ của NASA như bị đóng đinh xuống đất, các sứ mệnh sửa chữa và bảo trì kính viễn vọng Hubble cũng bị cấm đoán. Trong lúc đó đáng lẽ HST được xem xét lại từ đậy tới năm 2007, ngày mà các dụng cụ và bộ pin điện sẽ rời bỏ nó. Cơ quan hành chánh không gian cũng đã giữ hãng Lockheed Martin (Denver) lại với giá 330 triệu dollars để xây dựng một hỏa tiễn phóng (lanceur) có thể mang lên cho Hubble các dụng cụ thay thế cần thiết để kéo dài sứ mệnh quan sát của nó.
Phòng Đại diện và Quốc hội đã chuẩn y hôm 20 tháng 11, 2004 một ngân quỹ là 16,2 tỉ dollars cho NASA cho năm 2005. Cuối cùng NASA được 822 triệu dollars hơn năm 2004, xem như tăng 6%, và 44 triệu ít hơn thổng thống Bush đã yêu cầu.
NASA kêu gọi chế tạo robot sửa chữa kính viễn vọng Hubble
Hubble HST được sửa chữa.
Ngày 1/6, cơ quan NASA đã chính thức kêu gọi việc chế tạo một robot sửa chữa kính viễn vọng Hubble. Sean O”Keele, giám đốc Cơ quan không gian Mỹ cho biết các đơn đề nghị sẽ được nộp vào giữa tháng bảy và NASA sẽ công bố việc chọn lọc trước tháng chín. Tuyên bố này đã được các hội viên Hiệp hội Thiên văn Mỹ nhiệt liệt hoan nghênh.
Ngày 1/6, cơ quan NASA đã chính thức kêu gọi việc chế tạo một robot sửa chữa kính viễn vọng Hubble. Sean O”Keele, giám đốc Cơ quan không gian Mỹ cho biết các đơn đề nghị sẽ được nộp vào giữa tháng bảy và NASA sẽ công bố việc chọn lọc trước tháng chín. Tuyên bố này đã được các hội viên Hiệp hội Thiên văn Mỹ nhiệt liệt hoan nghênh.
Năm ngoái, NASA đã quyết định không tiếp tục bảo trì kính viễn vọng Hubble đã hoạt động trong suốt 14 năm. Nhưng các nhà thiên văn, cùng các đại biểu và công dân Mỹ đã vận động việc cứu Hubble. Lẽ ra vào năm 2006, các nhà du hành sẽ bay lên cứu kính viễn vọng nhưng vụ tai nạn của tàu con thoi Columbia vào tháng 2/2003 đã khiến sứ mệnh này bị bác bỏ. Do đó NASA quyết định gửi một robot lên sửa chữa các con quay hồi chuyển của Hubble, lắp đặt pin mới và những dụng cụ khoa học giúp kéo dài tuổi thọ của kính viễn vọng cho đến ít nhất là năm 2010, và chuẩn bị các điều kiện trở về Trái đất khi Hubble không còn hoạt động. Nhưng việc chế tạo một robot như vậy không phải là chuyện đơn giản.
Năng lượng của Hubble giúp vận hành kính viễn vọng và hướng về những khu vực trong vũ trụ mà các nhà thiên văn muốn nghiên cứu. Năng lượng này còn giúp duy trì nhiệt độ ở mức cố định và ngăn không cho sự đóng băng làm hỏng các dụng cụ.
Ba giải pháp cho kính thiên văn Hubble
Một tiểu ban gồm các chuyên gia do Cơ quan vũ trụ Mỹ (NASA) uỷ nhiệm, có nhiệm vụ nghiên cứu cách kéo dài thời gian hoạt động của kính thiên văn vũ trụ Hubble, đã đưa ra 3 khả năng lựa chọn phóng một, hay hai tàu con thoi để sửa chữa Hubble hoặc cho nó rơi an toàn xuống Thái Bình Dương. Nếu 3 giải pháp trên không được chấp nhận, Hubble có thể sẽ tự rơi vào đầu năm 2013.
Theo kế hoạch, Hubble sẽ ngừng hoạt động vào năm 2010 và thay thế nó là kính thiên văn vũ trụ James Webb, sẽ được đưa lên quỹ đạo vào tháng 8/2011. Hubble được phóng hồi năm 1990 và là bước đột phá của ngành thiên văn. Nó quan sát vũ trụ song không chịu tác động của khí quyển trái đất, chụp những hình ảnh tuyệt vời nhất về Hoả tinh, giúp con người xác định tuổi của vũ trụ, cung cấp bằng chứng về lỗ đen, cảnh ra đời của các ngôi sao và cách chúng qua đời. Ngoài ra, nó còn chớp được quang cảnh ngoạn mục về vụ va chạm giữa sao chổi Shoemaker-Levy 9 và Mộc tinh, thu thập bằng chứng về sự giãn nở của vũ trụ.
Các nhà thiên văn đã tới thăm Hubble 4 lần để nâng cấp và sửa chữa, gần đây nhất là chuyến thăm của tàu con thoi Columbia vào năm 2002 với nhiệm vụ lắp đặt camera khảo sát hiện đại. NASA dự định bảo dưỡng cỗ máy này một lần nữa trước khi kéo nó ra khỏi quỹ đạo.
Trước khi xảy ra thảm hoạ tàu Columbia vào ngày 1/2/2003, NASA còn dự định phóng tàu để đưa Hubble trở về trái đất, trưng bày nó tại Viện bảo tàng vũ trụ và hàng không. Theo tiểu ban độc lập, không thể chắc chắn về các chuyến bay sửa chữa Hubble trong tương lai kể từ sau vụ tai nạn tàu Columbia.
Tiểu ban đề xuất 3 khả năng lựa chọn lên NASA. Đó là:
– Phóng tàu con thoi sửa chữa Hubble vào năm 2005 và 2010 nhằm tận dụng tối đa hiệu suất khoa học của nó.
– Phóng một tàu con thoi lên Hubble trước cuối năm 2006 để lắp đặt các dụng cụ tiên tiến hơn và thay thế con quay hồi chuyển.
– Nếu không có tàu con thoi, phóng một phi thuyền để lắp đặt một module đẩy, làm cho Hubble rơi xuống Thái Bình Dương.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Một Số Về Thẻ Ngân Hàng trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!