Cập nhật nội dung chi tiết về Lý Thuyết Chức Năng – Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam mới nhất trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Lý thuyết chức năng là một trường phái lý thuyết do các nhà nhân học xã hội Anh phát triển, gọi là chức năng luận (functionalism) và kiến tạo phương pháp dân tộc học độc đáo dựa vào quan sát tham gia. Chức năng luận bao hàm hai trường phái lý luận có những luận điểm có phần khác nhau, đó là “chức năng luận” (functionalism) gắn với các ý tưởng của Bronislaw Malinowski (1884-1942) và “chức năng luận-cấu trúc” (structural-functionalism) gắn với các ý tưởng của Alfred Reginald Radcliffe-Brown (1881-1955).
Chức năng luận
[
sửa
]
Bronislaw Malinowski sinh năm 1858 ở Cracow, Ba Lan, tốt nghiệp đại học với bằng danh dự các ngành toán, vật lý và triết học ở Cracow vào năm 1908 và sau đó học Nhân học tại Trường Kinh tế London (London School of Economics). Năm 1914, Malinowski đi nghiên cứu điền dã ở quần đảo Trobriand thuộc New Guinea, và một cách tình cờ, ông buộc phải dừng lại ở đó vì Chiến tranh Thế giới lần thứ I bùng nổ. Từ 1914 đến 1918, được chính phủ Australia cho phép và cấp kinh phí, Malinowski đã ba lần từ Australia đi New Guinea điền dã 30 tháng ở quần đảo này. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ I, ông dạy học ở một số trường đại học, rồi trở về Trường Nghiên cứu Kinh tế London giảng dạy từ 1922 đến 1938. Những năm giảng dạy ở Trường Nghiên cứu Kinh tế London là khoảng thời gian Malinowski có ảnh hưởng mạnh nhất đến ngành Nhân học xã hội ở Anh quốc. Năm 1938, khi Chiến tranh Thế giới lần thứ II chuẩn bị nổ ra, Malinowski đang ở Mỹ và ông quyết định ở lại Mỹ, sau đó mất vào năm 1942 khi ông mới nhận làm việc tại Đại học Yale. Ngoài nghiên cứu điền dã dân tộc học ở New Guinea, Malinowski còn điền dã dân tộc học ở châu Phi và Mexico.
Với thành công và đóng góp đặc biệt của ông trong nghiên cứu điền dã dân tộc học, xây dựng lý thuyết, và đào tạo, Malinowski trở thành một trong những người sáng lập Nhân học xã hội, và là người có ảnh hưởng lớn đến lịch sử Nhân học thế giới. Những đóng góp quan trọng nhất của Malinowski nằm ở hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết với nhau trong nghiên cứu nhân học từ thời Malinowski, đó là phương pháp điền dã dân tộc học và lý thuyết chức năng. Malinowski phản đối mạnh mẽ các nhà tiến hóa luận nghiên cứu nhân học kiểu ghế bành của thế kỷ XIX, và ông đã kiến tạo truyền thống nghiên cứu nhân học dựa vào điền dã dân tộc học trong một thời gian dài gắn với phương pháp quan sát tham gia và sử dụng ngôn ngữ của đối tượng nghiên cứu. Dù đã xuất hiện từ trước, Malinowski được công nhận là cha đẻ của phương pháp quan sát tham gia, một phương pháp nghiên cứu dân tộc học độc đáo giúp nhà nhân học quan sát từ bên trong một cách chủ quan và phân tích từ bên ngoài một cách khách quan. Đến nay, quan sát tham gia được coi là phương pháp định danh điền dã dân tộc học và cách điền dã dân tộc học của Malinowski vẫn là chuẩn mực cho sinh viên ngành Nhân học và những ai muốn thực hành điền dã dân tộc học.
Quan điểm lý luận của Malinowski được gọi là chức năng luận. Về nguồn gốc, cả chức năng luận của Malinowski và chức năng luận-cấu trúc của Radfliffe-Brown ở Anh quốc đều có ảnh hưởng từ “phép loại suy hữu cơ” của nhà lý thuyết xã hội người Pháp thế kỷ XIX là Emile Durkheim (1858-1917). Phép loại suy cho rằng, xã hội tồn tại như một cơ thể con người, có cấu trúc xã hội, chức năng xã hội, và nghiên cứu khoa học xã hội cần gắn với tiến hóa xã hội. Tuy nhiên, các nhà nhân học xã hội Anh đương thời không quan tâm đến khía cạnh tiến hóa xã hội mà chỉ tập trung vào cấu trúc xã hội và chức năng của các thiết chế xã hội.
Theo đó, chức năng luận nhấn mạnh đến cá thể, xã hội và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng. Chức năng luận quan tâm đến cá thể, nhu cầu của cá thể và nhấn mạnh đến chức năng của các thiết chế xã hội trong việc thỏa mãn nhu cầu của cá thể chứ không phải vì tổng thể xã hội hay nhóm. Chức năng luận cho rằng xã hội có các thiết chế xã hội có chức năng phục vụ cho mục đích cơ bản của cá thể con người. Malinowski cho rằng cá thể con người có bảy nhóm nhu cầu, cả về sinh học lẫn tâm lý, và các nhu cầu này được thỏa mãn thông qua các đáp ứng mang tính văn hóa.
Quan điểm lý thuyết chức năng của Malinowski được thể hiện rõ trong các nghiên cứu của ông, trong đó một ví dụ hay và được nhiều người đọc là Argonauts of the Western Pacific, xuất bản năm 1922. Một điểm quan trọng trong cuốn sách này là Malinowski đã phát hiện ra vòng kula ở quần đảo Trobriand. Malinowski tìm hiểu vòng kula và các quy định trao đổi kula, đó là sự trao đổi vòng cổ theo chiều kim đồng hồ và sự trao đổi vòng cổ tay theo vòng ngược kim đồng hồ giữa các nhóm cư dân ở các đảo khác nhau. Dù sự trao đổi vòng cổ và vòng cổ tay này mang tính nghi lễ, nhưng vòng kula lại tăng cường sự cố kết và quan hệ liên minh giữa các nhóm cư dân ở các đảo khác nhau trong quần đảo này. Công trình nghiên cứu dân tộc học này của Malinowski không chỉ cho thấy sự bao dung của ông đối với các phong tục xa lạ mà còn làm cho người đọc thấu hiểu được chức năng của các phong tục rất khác biệt với các phong tục của chính xã hội nhà nghiên cứu.
Chức năng luận-cấu trúc
[
sửa
]
Alfred Reginald Radcliffe-Brown sinh năm 1881 ở Birmingham, Anh quốc. Là một trong những cha đẻ của truyền thống Nhân học xã hội Anh, trong giai đoạn đầu của sự nghiệp, Radcliffe-Brown tham gia cuộc thám hiểm năm 1910 nghiên cứu các bộ tộc thổ dân ở các đảo nằm giữa New Guinea và Australia. Ông là nhà nhân học đầu tiên được bổ nhiệm chức danh giáo sư ở Đại học Oxford, Anh quốc. Từ 1926 đến 1931, Radcliffe-Brown dạy Nhân học ở University of Sydney, Australia. Cuốn sách đầu tiên của ông là Andaman Islanders xuất bản năm 1922 là về xã hội của các cư dân ở quần đảo này. Cuốn sách thứ hai tựa đề Social Organization of Australian Tribes (1931) viết về những người thổ dân ở Australia.
Radcliffe-Brown gắn bó với chức năng luận-cấu trúc dựa trên nền tảng tri thức của nhà tư tưởng xã hội Emile Durkheim nhằm định nghĩa các cấu trúc thân tộc trên cơ sở sự thích nghi, chia tách và hợp nhất. Theo ông, thân tộc được định nghĩa là mối quan hệ máu mủ hay hôn nhân giữa một nhóm người với nhau. Các xã hội công nhận các mối quan hệ này dựa trên cơ sở dòng máu như là một dòng tộc có chung một tổ tiên. Tuy nhiên, trong một số xã hội, khái niệm thân tộc có thể mở rộng ra bên ngoài gia đình sang các nhóm hay bộ lạc mà có thể coi là cùng thân tộc huyết thống.
Radcliffe-Brown thực hiện nghiên cứu điền dã dân tộc học ở châu Phi và ở các đảo Andaman thuộc Tây Bắc Á. Ông tập trung vào cấu trúc của xã hội và nhấn mạnh đến chức năng của các thiết chế xã hội là nhằm duy trì sự tồn tại của xã hội. Theo ông, cấu trúc xã hội là một hình thức bao quanh của xã hội, và chức năng xã hội là vai trò của các thiết chế xã hội trong việc duy trì tổng thể xã hội. Kết quả của chức năng xã hội là một cấu trúc xã hội được duy trì ổn định. Nghĩa là, Radcliffe-Brown cho rằng các thiết chế xã hội như chính trị, kinh tế, tôn giáo, v.v., có chức năng kết nối xã hội thành một chỉnh thể. Chẳng hạn, trong các xã hội có qui mô nhỏ, các thiết chế xã hội dựa trên các mối quan hệ thân tộc có chức năng tăng cường tính cố kết của nhóm. Các chuẩn mực quy định những ứng xử cụ thể, các bổn phận, nghĩa vụ của các thành viên trong các mối quan hệ thân tộc thúc đẩy trật tự và sự ổn định của xã hội. Vì thế, Radcliffe-Brown cho rằng các thiết chế xã hội này có chức năng phục vụ nhu cầu của xã hội.
So sánh
[
sửa
]
Về sự tương đồng, điểm nổi bật nhất là cả chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc đều tập trung vào khám phá và phân tích mối quan hệ của các thiết chế khác nhau để tìm hiểu xem các thiết chế này có chức năng gì trong việc phục vụ xã hội và cá thể. Một điểm quan trọng nữa là cả hai trường phái chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc trong Nhân học xã hội Anh đều lập luận rằng xã hội là một thực thể hài hòa và ổn định, khác với các nhà tiến hóa luận coi xã hội thiên về biến đổi từ thấp lên cao theo một chiều tiến hóa đơn nhất, hay các nhà lý luận Mác-xít cho rằng xã hội chứa đựng mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng vì bất bình đẳng trong sở hữu tư liệu sản xuất. Các nhà nhân học xã hội Anh cũng có điểm chung là họ chỉ dừng lại ở tiếp cận đồng đại và không cho rằng Nhân học xã hội kết nối với Nhân chủng học, Khảo cổ học và Ngôn ngữ học để tạo thành một ngành khoa học nghiên cứu toàn diện về con người như các nhà nhân học theo chủ nghĩa đặc thù lịch sử ở Mỹ giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
Điểm khác biệt cơ bản giữa chức năng luận của Malinowski với chức năng luận-cấu trúc của Radcliffe-Brown là Malinowski nhấn mạnh đến chức năng trong khi Radcliffe-Brown nhấn mạnh đến cấu trúc. Malinowski cho rằng trong mối quan hệ giữa cá thể và xã hội, hay nhóm, thì các thiết chế xã hội có chức năng phục vụ nhu cầu của cá thể chứ không phải phục vụ nhu cầu của xã hội. Malinowski chứng minh rằng cá thể đã sử dụng các thiết chế xã hội và chuẩn mực văn hóa để thỏa mãn các nhu cầu cụ thể của mình. Nói cách khác, theo Malinowski, các thiết chế xã hội và chuẩn mực văn hóa tồn tại để thỏa mãn các nhu cầu này của cá thể con người trong xã hội. Trong khi đó, Radcliffe-Brown cho rằng các thiết chế xã hội có chức năng kết nối xã hội thành một chỉnh thể, tăng cường tính cố kết nhóm, thúc đẩy trật tự và sự ổn định của xã hội. Như vậy, theo Radcliffe-Brown, các thiết chế xã hội này có chức năng phục vụ nhu cầu của xã hội.
Để diễn đạt luận điểm này khác với chức năng luận-cấu trúc như thế nào, chúng ta có thể xem mỗi trường phái nhìn nhận như thế nào về nghi lễ tôn giáo. Đối với Radcliffe-Brown, mục đích của các nghi lễ tôn giáo là nhằm duy trì trật tự xã hội thông qua việc nhấn mạnh một số giá trị nào đó. Các nghi lễ tôn giáo tập hợp các thành viên trong xã hội lại với nhau, vì thế, chúng có chức năng phục vụ các giá trị chung và thúc đẩy cố kết nhóm. Đây là các nhu cầu của xã hội. Không thực hiện một nghi lễ tôn giáo cụ thể nào đó có thể sẽ tạo ra sự tức giận hay phản ứng trong các thành viên khác của một xã hội. Tuy nhiên, đối với Malinowski, việc thực hiện một nghi lễ tôn giáo như thế là để thỏa mãn nhu cầu của cá thể, ví dụ giảm đi sự bực dọc hay sự sợ hãi nào đó của cá thể. Một cá thể có thể cảm thấy bực dọc về một số vấn đề hay có sức ép nào đó của cuộc sống như cái chết, bệnh tật, đau khổ. Theo Malinowski, cá thể này sau đó sẽ thực hiện hay tham dự nghi lễ nhằm làm giảm đi sự bực dọc hay căng thẳng của mình. Vì thế, các nghi lễ trong trường hợp này có chức năng thỏa mãn nhu cầu của cá thể hơn là phục vụ cho nhu cầu của toàn thể xã hội nói chung.
Điểm mạnh và hạn chế
[
sửa
]
Chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc là các trường phái lý thuyết đã có ảnh hưởng quan trọng trong Nhân học. Bằng việc tập trung vào các chức năng cụ thể của các thiết chế trong các xã hội do các nhà nhân học nghiên cứu, chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc đã thúc đẩy nghiên cứu điền dã dân tộc học và thu thập tài liệu dân tộc học nguyên gốc, chi tiết và có giá trị. Vì thế, giống với Franz Boas trong Nhân học ở Mỹ, Malinowski và Radcliffe-Brown trong Nhân học xã hội ở Anh đã có công lớn trong việc xây dựng truyền thống Nhân học xã hội và chuyển kiểu nghiên cứu ghế bành trong Nhân học xã hội Anh sang nghiên cứu điền dã dân tộc học trong một thời gian dài với quan điểm tương đối luận văn hóa và đào tạo được nhiều nhà nhân học nghiên cứu điền dã dân tộc học ở nhiều nơi trên thế giới.
Tuy nhiên, chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc như là các trường phái lý thuyết chức năng có điểm yếu. Thứ nhất, các lý thuyết chức năng không thể giải thích được vì sao các xã hội giống nhau và khác nhau. Tại sao một số xã hội có các thiết chế khác nhau trong khi các thiết chế giống nhau lại không thể đảm đương các chức năng giống nhau? Điểm yếu này xuất phát từ chỗ các nhà chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc có xu hướng lãng quên các quá trình lịch sử. Họ không quan tâm đến nguồn gốc và sự tiến hóa của các thiết chế xã hội mà chỉ tập trung nghiên cứu xem các thiết chế này đã phục vụ nhu cầu của xã hội và cá thể như thế nào. Vì thế, họ không thể giải thích được ví dụ như tại sao xã hội Anh lại trải qua quá trình chuyển đổi công nghệ nhanh như thế trong khi các xã hội khác lại không dù cả hai đều có những nhu cầu như nhau. Thứ hai, các nhà lý thuyết chức năng đã bỏ qua xung đột và không thể lý giải thỏa đáng biến đổi xã hội khi họ nhìn nhận xã hội là một thực thể tĩnh, hài hòa, không biến đổi, không mâu thuẫn. Họ không thể giải thích được vì sao nếu tất cả các thiết chế đều thực hiện một chức năng cụ thể, thì các thiết chế này lại không biến đổi.
Tài liệu tham khảo
[
sửa
]
Adam Kuper, Anthropology and Anthropologists. London, Toutledge & Kegan Paul, 1985.
Marvin Harris,The Rise of Anthropological Theory. New York: Altamira Press, Updated Edition, 2001.
Thomas Hylland Eriksen and Finn Sivert Nietsen, A History of Anthropology. London: Pluto Press, 2001.
Bronislaw Malinowski, Argonauts of the Western Pacific. London: Routledge. First published in 1922.
Alan Barnard, History and Theory in Anthropology. Cambridge: Cambridge University Press, 2005.
Kathleen M. DeWalt and Billie R. DeWalt, Participant Observation: A Guide for Fieldworkers. New York: Altamira Press. Second Edition, 2011.
McGee, R. John, Richard L. Warms, Anthropological Theory: An Introductory History. New York: Mayfield Publishing Company. The 5th Edition, 2012.
Giả Thuyết Planck Về Lượng Tử Năng Lượng – Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam
Giả thuyết Planck về lượng tử năng lượng là giả thuyết hiện đại về tính chất gián đoạn (lượng tử) của năng lượng bức xạ.
Nhà Vật lý M. Planck (Đức) đưa ra năm 1900.
Khủng hoảng tử ngoại: vào cuối thế kỷ XIX, các nhà Vật lý gặp khó khăn lớn trong việc giải thích dạng của đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của năng suất phát xạ đơn sắc của vật đen tuyệt đối vào bước sóng ánh sáng.
Dựa vào lý thuyết phát xạ cổ điển, người ta thấy rằng năng suất phát xạ đơn sắc của vật đen tuyệt đối phải tỷ lệ với bình phương của tần số (tức là tỷ lệ nghịch với bình phương của bước sóng). Như vậy, khi
λ → 0
{displaystyle lambda rightarrow 0}
thì năng suất phát xạ đơn sắc
ρ ( λ , T ) → ∞
{displaystyle rho (lambda ,T)rightarrow infty }
. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với kết quả thực nghiệm. Người ta gọi sự bất lực của lý thuyết phát xạ cổ điển trong trường hợp này là sự khủng hoảng tử ngoại.
Giả thuyết (định luật) Planck: Planck cho rằng nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thất bại của lý thuyết phát xạ cổ điển trong sự giải thích các kết quả thực nghiệm về sự bức xạ của vật đen tuyệt đối, là quan niệm sai lầm về độ lớn của năng lượng mà một nguyên tử hoặc phân tử có thể trao đổi với bên ngoài, mỗi lần phát xạ hay hấp thụ bức xạ.
Theo Giả thuyết Planck về lượng tử năng lượng, lượng năng lượng mà một nguyên tử hay phân tử trao đổi mỗi lần phát xạ hay hấp thụ bức xạ có giá trị hoàn toàn xác định, bằng
ε = h f ,
{displaystyle varepsilon =hf,}
(1)
ε
{displaystyle varepsilon }
gọi là lượng tử năng lượng,
f
{displaystyle f}
là tần số của bức xạ được phát ra hay bị hấp thụ và ℎ là một hằng số. Sau này người ta đặt tên hằng số đó là hằng số Planck và đã xác định được chính xác giá trị của nó:
h = 6 ,
625.10
− 34
J . s
{displaystyle h=6,625.10^{-34}J.s}
(2)
Công thức Planck về bức xạ nhiệt: xuất phát từ Giả thuyết Planck về lượng tử năng lượng nói trên, Planck đã thiết lập được công thức biểu diễn sự phụ thuộc của năng suất phát xạ đơn sắc của vật đen tuyệt đối vào tần số
f
{displaystyle f}
và nhiệt độ
ρ ( f , T )
{displaystyle rho (f,T)}
(hoặc vào bước sóng và nhiệt độ
ρ ( λ , T )
{displaystyle rho (lambda ,T)}
. Công thức này được gọi là công thức Planck về bức xạ nhiệt, hay còn gọi là định luật bức xạ Planck, có dạng sau:
ρ ( f , T ) =
(
2 π
f
2
c
2
)
h f
( e x p { h f
/
k T } − 1 )
,
{displaystyle rho (f,T)=left({frac {2pi f^{2}}{c^{2}}}right){frac {hf}{(exp{hf/kT}-1)}},}
(3)
hay
ρ ( λ , T ) =
2 π h
c
2
λ
5
1
( e x p { h c
/
λ k T } − 1 )
,
{displaystyle rho (lambda ,T)={frac {2pi hc^{2}}{lambda ^{5}}}{frac {1}{(exp{hc/lambda kT}-1)}},}
(4)
Hệ quả của công thức Planck về bức xạ nhiệt: từ công thức (3) và (4), ta có thể suy ra các định luật về bức xạ nhiệt của vật đen tuyệt đối. Độ trưng năng lượng toàn phần RT của vật đen tuyệt đối là
R
T
=
∫
0
∞
ρ ( f , T ) d f = σ
T
4
{displaystyle R_{T}=int limits _{0}^{infty }rho (f,T)df=sigma T^{4}}
(5)
trong đó
σ = 5 ,
67.10
− 8
W
/
m
2
.
K
4
{displaystyle sigma =5,67.10^{-8}W/m^{2}.K^{4}}
. Đó là định luật Stefan-Boltzmann.
Tính đạo hàm của
ρ ( λ , T )
{displaystyle rho (lambda ,T)}
theo
λ
{displaystyle lambda }
, ta thấy đạo hàm này triệt tiêu khi
λ =
λ
m a x
{displaystyle lambda =lambda _{max}}
, ứng với giá trị cực đại của năng suất phát xạ đơn sắc của vật đen tuyệt đối:
λ =
b T
,
{displaystyle lambda ={frac {b}{T}},}
(6)
với
b = 2 ,
898.10
− 3
m . K
{displaystyle b=2,898.10^{-3}m.K}
. Đó chính là định luật dịch chuyển Wien.
Tài liệu tham khảo
[
sửa
]
J.P. Pérez, Thermodynamique, Fondements et applications, Masson, Paris, 1997.
Oxford Dictionary of Physics, Alan Isaacs (Ed), Oxford University Press, New York, 2000.
D. Haliday, R. Resnick, J. Walker, Fundamentals of Physics, John Wiley Inc., New York, 2014.
Thuyết Minh Chiếc Nón Lá Việt Nam
Thuyết minh chiếc nón lá-lớp 8
Mở Bài:
Nón lá là vật dụng quen thuộc và gần gũi trong đời sống người nông dân Việt Nam. Có thể nói nón lá là vật đội đầu truyền thống, trở thành biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp thanh mảnh, nhẹ nhàng của chiếc nón bài thơ, cùng với tá áo dài bay trong gió đã làm tôn lên vẻ đẹp của người con gái. (Thuyết minh chiếc nón lá)
Thân Bài:
Nón lá là vật dụng đội đầu có vai trò che nắng che mưa. Nón được làm từ các loại lá nên được gọi chung là nón lá. Nón lá còn được xem là một trang phục truyền thống của dân tộc ta.
Nón lá cũng có nhiều loại. Về loại nguyên liệu có: nón lá dứa, nón lá cọ, nón lá dừa, nón rơm, nón lá chuối… Về kĩ thuật có: nón lá một lớp lá, nón lá nhiều lớp lá, nón lá chéo lớp, nón lá bẻ vành, nón quai thao (nón Bắc), nón bài thơ (nón Huế), nón dấu (nón lính); nón cời; nón gõ; nón lá sen; nón thúng; nón khua (nón quan); nón chảo ,….. Nhưng thông dụng nhất vẫn là nón hình chóp.
* Nguồn gốc chiếc nón lá Việt Nam:
Nhiều tài liệu khẳng định chiếc nón lá xuất hiện lần đầu tiên vào thế kỉ 13, đời nhà Trần. Tuy nhiên, hình ảnh nón đội đầu tương tự như nón lá đã thấy xuất hiện trên trống đồng Ngọc Lũ, Trống Đồng Đông Sơn, trên thạp đồng Đào Thịnh từ 2500-3000 năm trước công nguyên. Người Việt cổ từ xưa đã biết lấy lá buộc lại làm vật che mưa, nắng. Từ những kiểu cách thô sơ ban đầu con người đã dần cải tạo làm cho chiếc nón ngày càng bền đẹp và tiện lợi hơn.
Nón lá đã hiện diện trong đời sống hằng ngày của người Việt Nam trong cuộc chiến đấu giữ nước. Trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, nghề chằm nón vẫn được duy trì và tồn tại đến ngày nay. Ngày nay, với sự xuất hiện của nhiều trang phục đội đầu, chiếc nón lá không còn được ưu chuộng như trước nhưng vẫn còn được các bà các cô ở những miền quê sử dụng hằng ngày.
* Đặc điểm, cấu tạo và cách làm nón lá Việt Nam:
– Hình dáng: nón có hình chóp tròn. Một số loại nón có bản và làm phẳng đỉnh– Màu sắc: thường có màu tráng đục của lá. Tuy nhiên, người ta cũng có thể sơn màu để nón bền và đẹp hơn.– Kích thước: nón thường có đường kính vành khoảng 50cm, cao 30cm.– Chất liệu: nón thường được làm từ lá cây như: rơm, lá cót, lá dừa, lá cọ. Phổ biến nhất là nón lá cọ bởi bản lá rộng, dễ làm, dễ đánh bóng và bền đẹp.
* Cấu tạo của chiếc nón gồm:
Vành nón, chóp nón, lá nguyên liệu và quai nón. Vành nón được làm từ những thanh tre uốn công thành hình tròn có nhiều kích thước từ to nhất ở vành quai đến nhỏ dần ở chóp. Nguyên liệu lá chọn làm nón được tuyển lựa và xử lí cẩn thận, đảm bảo khô và dai. Lá được chằm vào vành khung bằng dây cướt. Ở vành quai, người ta chằm sẵn hai móc quai.
Mỗi một chiếc nón thường sẽ có quai đeo làm bằng vải mềm hoặc lụa. Quai nón được thắt chặt vào vành vai, khi đội, quai quàng ngang cằm cổ giữ nón không bị lệch hoặc rơi. Để tránh làm nón bị hỏng, ở chóp người ta thường chằm một lớp nilon chống thấm nước. Toàn bộ nón được sơn một lớp dầu bóng hoặc sơn màu chống thấm nước và giúp nón bền đẹp hơn.
* Cách làm nón lá Việt Nam:
Để làm ra một chiếc nón lá đơn giản, người ta phải trải qua nhiều công đoạn. Trước hết là chuẩn bị nguyên vật liệu gồm: lá cọ đã qua sử lí, vành tre, kim khâu, cước khâu,…
Đầu tiên, người ta cố định vành nón từ nhỏ đến lớn trên một cái khung. Sau đó xếp đều đặn lá cọ lên trên và dùng kim khâu khâu từng lá một cho dính chặt vào khung. Thao tác này gọi là chằm khung. Để nón lá đẹp, bền chắc các mũi kim phải đều đặn, lá phải xếp ngay ngắn, phủ kín không hở. Cứ lần lượt làm như thế cho đến khi lá cọ đã phủ hết vành nón là chuyển qua khâu bẻ vành, kết đỉnh.
Ở rìa lớn nhất của nón, lá còn dư sẽ được cắt bỏ, sau đó dùng kim khây kết chặt vành lớn và lá cọ sao cho khin khít. Để lá cọ không bị bung lên trong quá trình sử dụng, người thợ đã khéo léo cài một thanh tre mỏng nẹp chặt vành nón. Ở vành thứ 3-4 tính từ vành lớn, người thợ kết hai búi chỉ để cột quai nón.
Kết đỉnh là se khít đỉnh nón không để nước chảy vào. Phần này phía bên trong người ta thường ép thêm một lớp ni-long mỏng chống nước. Các đường chỉ mỏng khin khít nhau làm cho chóp nón cứng cáp, bền chặt.
Để làm ra một chiếc nón vừa tinh xảo, vừa vắt mắt, người thợ có thể dùng chỉ cước nhiều màu hoặc vẽ lên nón những hình ảnh sinh động mô tả cuộc sống đồng quê bình dị hay những hình ảnh hoa lá, chim chóc sang trọng, làm cho chiếc nón thêm lộng lẫy.
Để lá bền chặt hơn, đôi khi người ta chằm hai lớp lá lên nhau gọ là nón đôi. Loại nón này nặng hơn, vành dày hơn nón đơn, thường dùng cho các lễ hội.
* Vai trò, ý nghĩa của chiếc nón lá trong đời sống người Việt:
Trước hết, nón lá có vai trò che giữ cho đầu khoogn bị ướt mưa, chói nắng, bảo vệ phần đầu trước mọi tác động của thiên nhiên. Bởi thế chiếc nón thường được con người sử dụng khi lao động hàng ngày.
Chiếc nón còn được sử dụng như một cái quạt làm mát trên những chặng đường xa, hay trong ngày hè nóng nực. Người nông dân dùng nón làm quạt xua đi nỗi mệt nhọc trên đồng ruộng. Không những thế, nhờ kĩ thuật ghép lá tỉ mỉ, chiếc nón đôi khi còn dùng để múc nước mà không hề chảy.
Chiếc nón lá gắn chặt với hình ảnh các bà, các cô, các thiếu nữ làm tăng thêm vẻ duyên dáng. Nhất là khi chiếc nón lá đi cùng với chiếc áo dài thướt tha tạo nên một vẻ đẹp quyến rũ vô cùng. Đó cũng là vẻ đẹp truyền thống từ ngàn đời nay của con người Việt Nam ta.
Chiếc nón lá còn được sử dụng như một dụng cụ ca múa, trang trí làm đẹp không gian. Hình ảnh chiếc nón còn đi vào thơ ca, nhac, họa và các loại hình nghệ thuật khác trở thành biểu tượng của cái đẹp và tâm hồn bình dị, hồn hậu của con người Viêt Nam.
* Sử dụng và bảo quản nón lá:
– Nón lá dùng để đội đầu. Không nên để nón va đập mạnh với các vật nhọn, vật cứng sẽ làm nón biến dạng, mau hỏng.– Không nên để nón gần lửa nóng hay dưới ánh nắng mặt trời lâu ngày.– Muốn nón lá được bền lâu chỉ nên đội khi trời nắng, tránh đi mưa. Sau khi dùng nên cất vào chỗ bóng râm, không phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá nón giòn và ố vàng làm làm mất tính thẩm mĩ và giảm tuổi thọ của nón.– Thường xuyên lau chùi, sửa chữa, rút xiết lại các đường khâu hoặc sơn phết nón để giữ gìn nón được lâu bền.
Kết Bài:
Là một biểu tượng của người phụ nữ Việt, chiếc nón lá gắn liền với cả đời sống vật chất và tinh thần của chúng ta. Đi khắp miền đất nước, hình ảnh chiếc nón lá vẫn luôn là hình ảnh chúng ta dễ bắt gặp hơn cả. Đó vừa là nét đẹp bình dị, mộc mạc, duyên dáng của người phụ nữ Việt, vừa là một biểu tượng văn hóa của một đất nước trọng tình trọng nghĩa của nước Nam ta. Biểu tượng ấy đã góp phần làm nên một vẻ đẹp rất Việt Nam.
Lý Thuyết Cấu Tạo Và Chức Năng Của Da Sinh 8
– Cấu tạo da gồm 3 lớp: lớp biểu bì, lớp bì (trung bì) và lớp mỡ dưới da (hạ bì).
Lớp biểu bì bào gồm: tầng sừng và tầng tế bào sống
+ Nằm ở ngoài cùng của da.
+ Gồm những tế bào chết đã hóa sừng xếp sít nhau và dễ bong ra.
– Vào mùa hanh khô, ta thường thấy những vảy nhỏ trắng bong ra như phấn trắng đó chính là tế bào lớp ngoài cùng của da đã chết và hóa sừng bong ra.
+ Nằm dưới lớp sừng.
+ Lớp tế bào có khả năng phân chia tạo ra các tế bào mới thay thế lớp tế bào ở lớp sừng đã bong ra.
+ Có chứa sắc tố qui định màu sắc da. Tạo nên các màu da khác nhau
– Các tế bào ở lớp tế bào sống dễ hấp thụ tia UV của ánh sáng mặt trời → sạm da, đen da (hình thành sắc tố melanin)… thậm chí có thể gây ung thư da → cần phải bảo vệ da, tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời quá lâu.
* Các sản phẩm của da
– Lông và móng là sản phẩm của da. Chúng được sinh ra từ các túi cấu tạo bởi các tế bào của tầng tế bào sống.
+ Tóc tạo nên lớp đệm không khí để chống tia tử ngoại, điều hòa nhiệt độ
+ Lông mày ngăn mồ hôi và nước
* Lưu ý: ta không nên lạm dụng kem, phấn, nhổ bỏ lông mày, dùng bút chì kẻ lông mày tạo dáng vì
+ Khi lạm dụng kem, phấn sẽ gây bít các lỗ chân lông và lỗ tiết chất nhờn, tạo điều kiện cho vi khuẩn bám vào da và phát triển gây bệnh da cho.
+ Không nên nhổ bỏ lông màu vì lông mày có vai trò ngăn không cho mồ hôi và nước chảy xuống mắt nếu nhổ bỏ lông mày thì nước và mồ hôi chảy xuống mắt có thể gây đau mắt và các bệnh về mắt.
– Cấu tạo từ các sợi mô liên kết bện chặt, gồm có: thụ quan, tuyến nhờn, cơ co chân lông, lông và bao lông, tuyến mồ hôi, dây thần kinh, mạch máu và rất nhiều các thành phần khác.
Ví dụ: sợi collagen giúp da đàn hồi tạo nên sự săn chắc của da. Mức độ đàn hồi của các sợi collagen phụ thuộc vào từng lứa tuối làm biến đổi hình thái của da.
– Lớp bì có vai trò giúp cho:
+ Da luôn mềm mại và không thấm nước vì: các sợi mô liên kết bện chặt với nhau và trên da có nhiều tuyến nhờn tiết chất nhờn.
+ Trên da có các thụ cảm nằm dưới da, có dây thần kinh nên ta nhận biết được nóng, lạnh, độ cứng, mềm của vật mà ta tiếp xúc.
+ Da có phản ứng khi trời quá nóng hoặc quá lạnh: khi trời nóng: mao mạch dưới da dãn → tuyến mồ hôi tiết nhiều mồ hôi; khi trời lạnh: mao mạch dưới da co → cơ chân lông co lại.
– Đặc điểm: chứa mỡ dự trữ, có vai trò cách nhiệt
Da là lớp màng sinh học, không chỉ là vỏ bọc ngoài cơ thể mà còn có nhiều chức năng khác nhau:
– Điều hòa nhiệt độ cơ thể: giữ cho cơ thể luôn ở mức 37 0 C
– Bài tiết chất độc cơ thể: ure, ammonia, acid uric…
– Tạo vitamin D: giúp cho sự tăng trưởng và phát triển của xương
– Giữ ẩm cho cơ thể: tránh sự bốc hơi nước làm khô da
– Thu nhận cảm giác: nhờ vào những thụ cảm thể mà da có những cảm giác nóng, lạnh, đau…
Bạn đang đọc nội dung bài viết Lý Thuyết Chức Năng – Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!