Đề Xuất 3/2023 # Khái Niệm Thần Kinh Học # Top 3 Like | Comforttinhdauthom.com

Đề Xuất 3/2023 # Khái Niệm Thần Kinh Học # Top 3 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Khái Niệm Thần Kinh Học mới nhất trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Khái niệm thần kinh học

Lê Thạch

Khoa Thần kinh Bệnh viện Bạch Mai

Nhiều người “quen dùng” từ Thần kinh để chỉ người bị rối loạn tâm trí! Có cán bộ y tế nhầm lẫn giữa thần kinh và tâm thần. Vậy Thần kinh học là gì ?

Thần kinh học (Neurology) là khoa học chuyên nghiên cứu về toàn bộ hoạt động của hệ thần kinh về phương diện cấu trúc, chức năng trong hoàn cảnh bình thường cũng như trong hoàn cảnh rối loạn, bệnh lý… Dựa trên những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, nhất là những tiến bộ về lý sinh, hoá sinh, về điện toán, khoa học nghiên cứu về thần kinh cũng được đẩy mạnh lên trình độ cao.

Thần kinh học chuyên nghiên cứu điều trị những bệnh chủ yếu làm rối loạn hoạt động thần kinh mà căn bản là những hoạt động phản xạ không điều kiện làm trở ngại sự thích ứng của cơ thể đối với môi trường bên ngoài.

Hệ Thần kinh

Là hệ thống trẻ tuổi nhất trong các hệ thống cơ quan của sinh vật. Trong quá trình tiến hoá (bậc thang sinh vật), hệ thần kinh là dẫn chứng điển hình của sự phân biệt giữa người và vật, cho sự phát triển sinh vật, phát triển biện chứng.

Hệ Thần kinh

Là cơ quan chủ động của toàn thể, phụ trách hoàn toàn mọi hoạt động của cơ thể với hai hệ: hệ tiếp ngoại chi phối hoạt động cơ thể với môi trường bên ngoài, và hệ thực vật phụ trách hoạt động của môi trường bên trong. Não và Tủy sống làm thành hệ thần kinh trung ương: từ não và tủy sống có các dây thần kinh – dây thần kinh sọ (chi phối khoanh đầu -mặt), dây thần kinh gai (tủy) (chi phối khoanh cơ thể và các chi) – toàn bộ hình thành hệ thần kinh ngoại vi (ở lâm sàng, cần phân biệt tổn thương trung ương và tổn thương ngoại vi).

Cơ thể con người tiếp thu các phản ứng kích thích ở bên ngoài và ở bên trong, chọn lọc, loại trừ và tùy từng trường hợp có những phản ứng khác nhau. Thông qua các tổ chức khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp, thậm chí rất phức tạp của toàn bộ hệ thần kinh để thực hiện tốt nhiệm vụ tiếp thu và giải đáp…

Như vậy, thứ nhất hệ thần kinh giữ mối liên hệ các cơ quan, cơ thể với môi trường bên ngoài, qua đó biểu hiện những hình thái tinh vi và phức tạp của cơ thể với thế giới bên ngoài, thứ hai là, điều chỉnh hoạt động của cơ thể và thứ ba là tạo mối thống nhất giữa hiện tượng bên ngoài và hoạt động bên trong của cơ thể.

Nghiên cứu các chứng-bệnh thần kinh

Là nghiên cứu những biểu hiện rối loạn chức năng tiếp thu và chức năng giải đáp của hệ thần kinh ở các hình thái kích thích hay hủy hoại gián đoạn. Từ đó nghiên cứu đánh giá phân tích các biểu hiện bệnh lý thần kinh: những biểu hiện này rất phong phú đa dạng, từ những căn bệnh chung như bệnh tim mạch nhiễm độc, u độc, xâm phạm gây tổn thương hệ thần kinh hoặc từ những căn bệnh riêng của hệ thần kinh (virut hướng thần kinh, u hệ thần kinh, bệnh bẩm sinh, thoái hoá…)

         Trong nhiều trường hợp, “biến cố bệnh lý” đó biểu hiện dưới hình thức dị cảm (thường là đau đớn) và gây nên những hoạt động đối phó như căng cơ, rãn mạch…. Đó là những phản ứng thần kinh, phát sinh ra những triệu chứng báo hiệu đầu tiên. Ví dụ, đau vùng hố chậu phải “báo hiệu” có thể là viêm ruột thừa. Trong viêm ruột thừa có phản ứng cơ thành bụng …

Nghiên cứu hoặc kỹ thuật phát hiện những biểu hiện rối loạn đó là những vấn đề của triệu chứng thần kinh. Nghiên cứu các mặt triệu chứng riêng rẽ (triệu chứng phân tích) sau đó tổng hợp lại thành hội chứng (triệu chứng tổng hợp). Đặc biệt ở thần kinh, vấn đề khu trú tổn thương rất quan trọng (chẩn đoán định khu), từ đó có thể thấy được nguyên nhân để tiến hành chữa bệnh.

Do đặc điểm thần kinh có liên hệ chặt chẽ với những phần tử hốc xương ở vùng sọ – mặt,… thực chất là những “đầu ngọn” của thần kinh ngoại vi. Những rối loạn bệnh lý ở vùng đó, hoặc ngược lại những tổn thương ở trục thần kinh đều có thể có những biểu hiện bệnh lý ở sọ – mặt, và thường là “lý do” người bệnh đến khám ở chuyên khoa mắt, tai mũi họng hay răng hàm mặt… đặc biệt đau nhức tới khám ở khoa Nội….

Ngoài những “thông tin” về máu, sinh hoá, nước tiểu, dịch não tủy, thần kinh học còn dựa trên những kết quả thăm dò chức năng như X quang thần kinh, điện não đồ, chụp cắt lớp vi tình, chụp cộng hưởng từ, các loại siêu âm, chụp mạch não. Ngoài ra, trong quá trình phát triển ở tương lai, chúng ta sẽ có chụp cắt lớp điện tử dương (PET), chụp cắt lớp vi tính với photon (SPECT), sử dụng các chất đánh dấu di truyền.

Những biểu hiện bệnh lý thần kinh

Bệnh thần kinh là đối tượng của thần kinh học với những dạng bệnh khá phong phú của các bệnh ở não, ở tủy sống, từ những căn bệnh chung (tim mạch, nhiễm độc, u độc…) xâm phạm gây tổn thương hệ thần kinh hoặc từ những căn bệnh riêng của hệ thần kinh (virut hướng thần kinh, u hệ thần kinh, bệnh bẩm sinh, thoái hoá. Ngoài ra cũng phải nêu bệnh của thế kỷ ngày càng “xâm phạm” vào hệ thần kinh – bệnh của môi trường “hiện đại”, bệnh HIV, AIDS…

Điều trị ở thần kinh 

Cũng như các chuyên khoa khác, điều trị bệnh thần kinh bao gồm điều trị nguyên nhân và điều trị triệu chứng, điều trị nội khoa và điều trị ngoại khoa hoặc kết hợp cả hai, và nhất là điều trị phục hồi chức năng thần kinh.

Ngoài ra, điều trị phải toàn diện bao gồm điều trị thuốc men, ăn uống, nghỉ ngơi và điều trị tâm lý.

Phòng bệnh ở thần kinh.

– Phòng bệnh ở thần kinh bao gồm ngăn ngừa những tác nhân gây bệnh kết hợp với các chế độ chính sách của xã hội, với sự chú ý giúp đỡ của các ngành kinh tế. Trước hết, tập trung vào bảo vệ bà mẹ và trẻ em, phòng chống bệnh nhiễm khuẩn và bảo vệ lao động

– Phòng bệnh ở thần kinh còn ở chỗ biết phát hiện sớm, chính xác những triệu chứng thần kinh…Điều này không những đòi hỏi về chất lượng cán bộ chuyên khoa thần kinh ở các tuyến mà cán bộ đa khoa cũng cần được trang bị kiến thức “thần kinh trong thực hành đa khoa”. Phòng bệnh ở thần kinh còn ở chỗ tổ chức điều trị, theo dõi, phát hiện tại cộng đồng và thuốc men được kịp thời đầy đủ.

– Phòng bệnh ở thần kinh còn ở chỗ phổ biến, nâng cao những kến thức thông thường về các bệnh thần kinh cho các tầng lớp nhân dân.

“Thập kỷ của Não” ( Decade ò the Brain) đã qua. Thế kỷ 21 là thế kỷ của “tư duy“, với BRAIN Initiative của Obama…

Ở ta, do hoàn cảnh đặc biệt – còn phải giải quyết những vấn đề chung của Y tế cộng đồng, chuyên ngành Thần kinh có những bước đi ban đầu đầy khó khăn, mặt khác lại cần và phải tiếp cận với Thần kinh học hiện đại.

Dựa trên đường lối, phương châm y học của ta, chuyên ngành Thần kinh cần phải:

– Về lâm sàng – cần phải có thời gian dài nghiên cứu đặc điểm về các bệnh thần kinh chủ yếu ở Việt Nam, bệnh thần kinh nhiệt đới: các bệnh nhiễm khuẩn thần kinh, bệnh lý mạch máu não, bệnh động kinh. Đặc biệt, cần tập trung chú ý các chứng đau nhức ở thần kinh, các cơn co giật ở trẻ em và ở người cao tuổi, các chứng sa sút trí tuệ, nghiên cứu Viêm não Nhật bản ở Việt Nam, Tai biến mạch máu não ở tuổi già và ở tuổi trẻ, các bệnh thoái hoá (bệnh xơ cứng rải rác…), bệnh tự miễn ở thần kinh.

– Về điều trị và dự phòng, cần tập trung giải quyết nhiễm khuẩn thần kinh (nhất là Viêm màng não do lao, viêm não B), tổ chức phát hiện và xử trí kịp thời bệnh động kinh, tai biến mạch máu não cũng như tiếp tục giải quyết di chứng thần kinh sau sang chấn sọ trước kia (trong chiến tranh) và hiện nay trong tai nạn giao thông. Đồng thời, phải chú ý nhiều tới các bệnh nghề nghiệp ở thần kinh.

– Về chẩn đoán, cần sử dụng một cách rộng rãi các phương tiện thăm dò chức năng, trước hết là những “kỹ thuật mũi nhọn”. Tiến hành nghiên cứu điện não đồ trong lâm sàng cũng như trong thần kinh sinh lý lâm sàng, sử dụng chụp cắt lớp vi tính rộng rãi hơn trong chẩn đoán bệnh não, nhất là tai biến mạch máu não, chèn ép não… Nghiên cứu phát triển chụp cộng hưởng từ và các siêu âm não.

Nghiên cứu sử dụng thần kinh tâm lý lâm sàng trong chẩn đoán một số bệnh thần kinh.

Cố gắng trong tình hình hiện nay kết hợp lâm sàng và giải phẫu bệnh lý thần kinh để nghiên cứu góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị bệnh thần kinh.

Kinh Tế Học: Khái Niệm Và Nguyên Lý

Kinh tế học là một bộ môn khoa học xã hội giúp cho con người hiểu về cách thức vận hành của nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng chủ thể tham gia vào nền kinh tế nói riêng. Vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các đơn vị kinh tế phải lựa chọn. Các Nhà Kinh tế cho rằng: Kinh tế học là “khoa học của sự lựa chọn”. Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối đa nhu cầu vật chất của con người. Đặc biệt, kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong thế giới có nguồn lực hạn chế.

Thực tế, nguồn lực được phân bổ không phải chỉ do nhà hoạch định duy nhất của chính phủ trung ương, mà còn thông qua sự tác động qua lại của hàng triệu hộ gia đình và doanh nghiệp. Do vậy, kinh tế học cần tìm hiểu xem mọi cá nhân ra quyết định thế nào, quyết định làm việc bao nhiêu, mua cái gì, tiết kiệm như thế nào và khoản tiết kiệm đó đầu tư ra sao. Kinh tế học cũng cần nghiên cứu, phân tích làm thế nào mà rất nhiều người mua cùng một sản phẩm lại có thể cùng nhau tạo ra một mức giá duy nhất và một lượng hàng ổn định. Mục tiêu cuối cùng, kinh tế học phải phân tích được các lực lượng và xu thế ảnh hưởng đến nền kinh tế với tư cách tổng thể, tốc độ tăng trưởng của thu nhập bình quân, thất nghiệp và sự gia tăng của giá cả.

10 nguyên lý của kinh tế học:

Nền kinh tế không có gì là bí hiểm cả, xét cho cùng, khái niệm này được dùng để chỉ “một nhóm người tác động qua lại với nhau trong cuộc đấu tranh sinh tồn”. Quy cho cùng, thì hoạt động của nền kinh tế chẳng qua chỉ là tác động tổng hợp hoạt động của các cá nhân cấu thành nền kinh tế.

Ví dụ, việc quyết định đi học đại học: Ích lợi của cách hành động này là giàu thêm kiến thức và có cơ hội có được công việc làm tốt hơn trong suốt cả cuộc đời. Thế còn chi phí của nó là gì? Nó chính là tổng cộng các khoản tiền phải trả để có được việc học hành này (học phí, tài liệu, sinh hoạt phí,…). Nhưng tổng số tiền đó thực sự chưa phải là toàn bộ những gì bạn phải từ bỏ để theo học đại học.

Ví dụ trên cho thấy:

Thứ nhất, nó bao gồm cả những thứ không thực sự là chi phí cho việc học đại học. Kể cả không phải học đại học, người ta vẫn phải chi phí sinh hoạt, vẫn phải chi cho ăn uống, chỗ ở. Tiền ăn uống ở trường đại học chỉ trở thành chi phí cho việc học đại học khi nó cao hơn ở những nơi khác. Cũng có khi, sinh hoạt phí ở trường đại học có thể rẻ hơn những nơi khác – Trường hợp này, số tiền tiết kiệm được trở thành ích lợi cho việc học đại học.

Thứ hai, nó bỏ qua khoản chi phí lớn nhất cho việc học đại học là thời gian của việc học. Khi dành một khoảng thời gian để nghe giảng, đọc tài liệu và viết tiểu luận, người ta không thể sử dụng nó để làm việc khác. Nhiều người hiểu rằng tiền lường phải từ bỏ do không đi làm để đi học đại học là khoản chi phí lớn nhất cho việc học đại học.

Chi phí cơ hội (opportunity cost) của một thứ là thứ mà bạn phải từ bỏ để có được nó. Khi quyết định bất kỳ việc gì (chẳng hạn đi học đại học), người ra quyết định phải xem xét đến chi phí cơ hội gắn với các hành động có thể thực hiện. Chi phí cơ hội của các vận động viên thể thao ở lứa tuổi sinh viên có thể rất cao – họ có thể kiếm được rất nhiều tiền nếu bỏ học, để chơi các môn thể thao nhà nghề. Đương nhiên, mọi người hiểu rằng, ích lợi của việc học đại học là quá nhỏ so với chi phí.

Nhiều trường hợp, mọi người đưa ra được quyết định tối ưu nhờ tính đến điểm cận biên; bằng cách so sánh ích lợi cận biên và chi phí cận biên.

Nguyên lý 4: Con người phản ứng lại các kính thích:

Con người ra các quyết định dựa trên sự so sánh chí phí và ích lợi, nên hành vi của họ có thể thay đổi khi chi phí, ích lợi hoặc cả hai thay đổi

Thúc đẩy hiệu quả và công bằng của xã hội là hai nguyên nhân chủ yếu để chính phủ can thiệp vào nền kinh tế. Nghĩa là, hầu hết các chính sách đều nhằm vào mục tiêu vừa làm cho chiếc bánh kinh tế lớn lên và vừa làm thay đổi cách thức phân chia chiếc bánh đó.

Hầu hết sự khác biệt về mức sống có nguyên nhân ở sự khác nhau về năng suất lao động của mỗi quốc gia (số lượng hàng hóa được làm ra trong mỗi một giờ lao động của một công nhân). Ở những quốc gia, người lao động sản xuất ra được lượng hàng hóa và dịch vụ lớn hơn trong một đơn vị thời gian, thì hầu hết người dân được hưởng mức sống cao; còn những quốc gia có năng suất kém hơn, thì hầu hết người dân phải chịu cuộc sống khó khăn. Thực chất, tốc độ tăng năng suất lao động của một quốc gia quyết định tốc độ tăng thu nhập bình quân của quốc gia đó.

Lạm phát: Sự gia tăng của mức giá chung

Trong dài hạn, nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát chính là sự gia tăng quá mức của lượng tiền làm cho tiền mất giá. Khi Chính phủ phát hành ra một lượng tiền lớn, giá trị của tiền sẽ giảm.

Nếu lạm phát như vậy, thì tại sao đôi khi các nhà hoạch định chính sách lại gặp rắc rối trong việc chèo lái con thuyền kinh tế? Một lý do là mọi người cho rằng chính sách cắt giảm lạm phát thường gây ra sự gia tăng tạm thời của thất nghiệp. Đồ thị minh họa cho sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp được gọi là đường phillips (Phillips curve).

Lịch sử ra đời và phát triển của kinh tế học: 3 giai đoạn

Đặc điểm thực tiễn: Nền kinh tế của các nước TBCN phát triển ở giai đoạn tự do cạnh tranh, hầu hết các thị trường đều đạt trạng thái cân bằng.

Đặc điểm lý luận: Nhà kinh tế học người Anh Adam Smith với lý thuyết bàn tay vô hình : Thị trường là lực lượng duy nhất có thể điều tiết nền kinh tế. Kinh tế học vi mô ra đời

Đại khủng hoảng kinh tế (Great Depression 1929 – 1933), sự sụp đổ của TTCK Mỹ (Wall Street) vào năm 1929 khiến lý thuyết Adam Smith bị nghi ngờ.

Đặc điểm lý luận: Nhà kinh tế học người Anh J.M.Keynes cho rằng: Chính phủ là lực lượng duy nhất có thể điều khiển được nền kinh tế (bàn tay hữu hình). Kinh tế học vĩ mô ra đời.

Đặc điểm thực tiễn: nền kinh tế các nước TBCN liên tục rơi vào các cuộc khủng hoảng kinh tế. Sự can thiệp của chính phủ (bàn tay hữu hình) đôi khi trở nên vô hiệu.

Đặc điểm lý luận: Nhà kinh tế học Paul Samuelson cho rằng: muốn điều tiết nền kinh tế phải sử dụng cả hai tay (bàn tay vô hình và hữu hình) (Kinh tế học vĩ mô tổng hợp).

Khủng hoảng Đông Á 1997

Khủng hoảng tài chính Mỹ và thế giới 2008 – 2010

Khủng hoảng nợ công châu Âu (từ 2010)

Kinh tế học vi mô nghiên cứu các quyết định của các cá nhân và doanh nghiệp và các tương tác giữa các quyết định này trên thị trường. Kinh tế học vi mô giải quyết các đơn vị cụ thể của nền kinh tế và xem xét một cách chi tiết cách thức vận hành của các đơn vị kinh tế hay các phân đoạn của nền kinh tế.

Mục tiêu của kinh tế học vi mô nhằm giải thích giá và lượng của một hàng hóa cụ thể. Kinh tế học vi mô còn nghiên cứu các quy định, thuế của chính phủ tác động đến giá và lượng hàng hóa và dịch vụ cụ thể. Chẳng hạn, kinh tế học vi mô nghiên cứu các yếu tố nhằm xác định giá và lượng xe hơi, đồng thời nghiên cứu các quy định và thuế của chính phủ tác động đến giá cả và sản lượng xe hơi trên thị trường.

Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu nền kinh tế quốc gia và kinh tế toàn cầu, xem xét xu hướng phát triến và phân tích biến động một cách tổng thể, toàn diện về cấu trúc của nền kinh tế và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế.

Mục tiêu phân tích của kinh tế học vĩ mô nhằm giải thích giá cả bình quân, tổng việc làm, tổng thu nhập, tổng sản lượng sản xuất. Kinh tế học vĩ mô còn nghiên cứu các tác động của chính phủ như thu ngân sách, chi tiêu chính phủ, thâm hụt ngân sách lên tổng việc làm và tổng thu nhập. Chẳng hạn, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu chi phí sống bình quân của dân cư, tổng giá trị sản xuất, thu chi ngân sách của một quốc gia.

Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô là hai bộ phận cấu thành quan trọng của môn kinh tế học, có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mối quan hệ này cho thấy rằng, trong thực tiễn quản lý kinh tế, cần thiết phải giải quyết tốt các vấn đề kinh tế trên cả hai phương diện vi mô và vĩ mô. Nếu chỉ tập trung vào những vấn đề vi mô như tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp mà không có sự điều tiết của chính phủ, thì không thể có một nền kinh tế thực sự phát triển ổn định, bình đẳng và công bằng.

Kinh tế học thực chứng: (positive analysis) mô tả và phân tích các sự kiện, những mối quan hệ trong nền kinh tế. Kinh tế học thực chứng trả lời cho câu hỏi “Là gì? Là bao nhiêu? Là như thế nào?”.

Sợi Thần Kinh (Khoa Học Thần Kinh)

sợi trục (từ Hy Lạp ἄξω á á , trục) hoặc sợi thần kinh , là một hình chiếu dài, mảnh của một tế bào thần kinh, hoặc tế bào thần kinh, ở động vật có xương sống, thường dẫn truyền xung điện gọi là điện thế hoạt động, ra khỏi cơ thể tế bào thần kinh. Chức năng của Một sợi trục là một trong hai loại tế bào chất nhô ra khỏi cơ thể tế bào của một tế bào thần kinh; loại khác là một dendrite. Các sợi trục được Các sợi trục được bao phủ bởi một màng gọi là axolemma; tế bào chất của một sợi trục được gọi là axoplasm. Hầu hết các sợi trục, trong một số trường hợp rất nhiều. Các nhánh cuối của một sợi trục được gọi là telodendria. Đầu bị sưng của một telodendron được gọi là đầu sợi trục nối với dendron hoặc thân tế bào của một tế bào thần kinh khác tạo thành một kết nối synap. Các sợi trục tiếp xúc với các tế bào khác thường là các tế bào thần kinh khác nhưng đôi khi các tế bào cơ hoặc tuyến khác tại các điểm nối được gọi là khớp thần kinh. Trong một số trường hợp, sợi trục của một nơ-ron có thể hình thành một khớp thần kinh với các sợi nhánh của cùng một nơ-ron, dẫn đến tự kỷ. Ở một khớp thần kinh, màng của sợi trục tiếp giáp chặt chẽ với màng của tế bào đích và các cấu trúc phân tử đặc biệt phục vụ để truyền tín hiệu điện hoặc điện hóa qua khe hở. Một số nút giao thông synaptic xuất hiện dọc theo chiều dài của một sợi trục như nó en passant ( “trong đi qua”) các khớp thần kinh và có thể lên đến hàng trăm hoặc thậm chí hàng ngàn dọc theo một sợi trục. Các khớp thần kinh khác xuất hiện dưới dạng các đầu cuối ở cuối các nhánh sợi trục. Một sợi trục duy nhất, với tất cả các nhánh của nó được ghép lại với nhau, có thể bẩm sinh nhiều phần của bộ não và tạo ra hàng ngàn thiết bị đầu cuối synap. Một bó sợi trục tạo nên một

Một(từ Hy Lạp ἄξω á, trục) hoặc, là một hình chiếu dài, mảnh của một tế bào thần kinh, hoặc tế bào thần kinh, ở động vật có xương sống, thường dẫn truyền xung điện gọi là điện thế hoạt động, ra khỏi cơ thể tế bào thần kinh. Chức năng của sợi trục là truyền thông tin đến các nơ-ron, cơ và tuyến khác nhau. Trong một số tế bào thần kinh cảm giác (tế bào thần kinh giả), chẳng hạn như các tế bào cảm ứng và ấm áp, các sợi trục được gọi là các sợi thần kinh hướng tâm và xung điện di chuyển dọc theo các sợi này từ ngoại vi đến cơ thể tế bào và từ thân tế bào đến tủy sống nhánh của cùng một sợi trục. Rối loạn chức năng sợi trục đã gây ra nhiều rối loạn thần kinh di truyền và mắc phải có thể ảnh hưởng đến cả tế bào thần kinh ngoại biên và trung ương. Sợi thần kinh được phân thành ba loại – sợi thần kinh nhóm A, sợi thần kinh nhóm B và sợi thần kinh nhóm C. Nhóm A và B bị myelin hóa và nhóm C không có myelin. Các nhóm này bao gồm cả sợi cảm giác và sợi động cơ. Một phân loại khác, chỉ nhóm các sợi cảm giác và các nhóm này được nhóm thành Loại I, Loại II, Loại III và Loại IV.Một sợi trục là một trong hai loại tế bào chất nhô ra khỏi cơ thể tế bào của một tế bào thần kinh; loại khác là một dendrite. Các sợi trục được phân biệt với đuôi gai bởi một số tính năng, bao gồm hình dạng (đuôi gai thường thon trong khi sợi trục thường duy trì bán kính không đổi), chiều dài (đuôi gai được giới hạn trong một vùng nhỏ quanh thân tế bào trong khi sợi trục có thể dài hơn nhiều) và chức năng (đuôi gai nhận được tín hiệu trong khi sợi trục truyền chúng). Một số loại tế bào thần kinh không có sợi trục và truyền tín hiệu từ đuôi gai của chúng. Ở một số loài, sợi trục có thể phát ra từ sợi nhánh và chúng được gọi là sợi nhánh mang sợi trục. Không có tế bào thần kinh nào có nhiều hơn một sợi trục; tuy nhiên ở động vật không xương sống như côn trùng hoặc đỉa, sợi trục đôi khi bao gồm một số vùng hoạt động độc lập ít nhiều với nhau.Các sợi trục được bao phủ bởi một màng gọi là axolemma; tế bào chất của một sợi trục được gọi là axoplasm. Hầu hết các sợi trục, trong một số trường hợp rất nhiều. Các nhánh cuối của một sợi trục được gọi là telodendria. Đầu bị sưng của một telodendron được gọi là đầu sợi trục nối với dendron hoặc thân tế bào của một tế bào thần kinh khác tạo thành một kết nối synap. Các sợi trục tiếp xúc với các tế bào khác thường là các tế bào thần kinh khác nhưng đôi khi các tế bào cơ hoặc tuyến khác tại các điểm nối được gọi là khớp thần kinh. Trong một số trường hợp, sợi trục của một nơ-ron có thể hình thành một khớp thần kinh với các sợi nhánh của cùng một nơ-ron, dẫn đến tự kỷ. Ở một khớp thần kinh, màng của sợi trục tiếp giáp chặt chẽ với màng của tế bào đích và các cấu trúc phân tử đặc biệt phục vụ để truyền tín hiệu điện hoặc điện hóa qua khe hở. Một số nút giao thông synaptic xuất hiện dọc theo chiều dài của một sợi trục như nó kéo dài-chúng được gọi là( “trong đi qua”) các khớp thần kinh và có thể lên đến hàng trăm hoặc thậm chí hàng ngàn dọc theo một sợi trục. Các khớp thần kinh khác xuất hiện dưới dạng các đầu cuối ở cuối các nhánh sợi trục.Một sợi trục duy nhất, với tất cả các nhánh của nó được ghép lại với nhau, có thể bẩm sinh nhiều phần của bộ não và tạo ra hàng ngàn thiết bị đầu cuối synap. Một bó sợi trục tạo nên một dây thần kinh trong hệ thần kinh trung ương và một nang trong hệ thần kinh ngoại biên. Ở động vật có vú nhau, đường dẫn chất trắng lớn nhất trong não là khối tử thi, được hình thành từ khoảng 20 triệu sợi trục trong não người.

Khái Niệm Và Đặc Điểm Kinh Doanh Khách Sạn Hiện Nay

Kinh doanh khách sạn đã có từ lâu đời và ở Việt Nam đang ngày càng phát triển. Vậy khái niệm về khách sạn là gì?

Kinh doanh khách sạn là hoạt động kinh doanh trên cơ sở cung cấp các dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung cho khách nhằm đáp ứng các nhu cầu ăn, nghỉ ngơi và giải trí của họ tại các điểm du lịch nhằm mục đích có lãi. Kinh doanh khách sạn bao gồm: kinh doanh lưu trú và kinh doanh ăn uống.

Kinh doanh lưu trú là hoạt động kinh doanh ngoài lĩnh vực sản xuất vật chất, cung cấp các dịch vụ cho thuê buồng ngủ và các dịch vụ bổ sung khác cho khách trong thời gian lưu lại tạm thời tại các điểm du lịch nhằm mục đích có lãi.

Kinh doanh ăn uống trong khách sạn là một phần trong kinh doanh khách sạn, nó bao gồm các hoạt động chế biến thức ăn, bán và phục vụ nhu cầu tiêu dùng các thức ăn, đồ uống và cung cấp các dịch vụ khác nhằm thỏa mãn các nhu cầu về ăn uống và giải trí tại các nhà hàng của khách sạn cho khách nhằm mục đích có lãi.

2. Đặc điểm kinh doanh khách sạn

Kinh doanh khách sạn phụ thuộc vào tài nguyên du lịch tại các điểm du lịch

Tài nguyên du lịch chính là yếu tố thúc đẩy, thôi thúc con người đi du lịch. Như vậy, nơi nào có tài nguyên du lịch thì nơi đó sẽ có khách du lịch và nơi nào không có tài nguyên du lịch thì nơi đó không thể có khách du lịch. Trong khi đối tượng khách hàng quan trọng nhất của khách sạn là khách du lịch.

Do đó, kinh doanh khách sạn sẽ thành công ở những nơi có tài nguyên du lịch và nó lại càng thành công hơn khi mà tài nguyên du lịch ở đó lại có giá trị và sức hấp dẫn cao. Kinh doanh khách sạn chịu ảnh hưởng lớn của tài nguyên du lịch.

Ngoài ra, khi đầu tư vào kinh khách sạn đòi hỏi nhà đầu tư phải nghiên cứu kỹ các thông số của tài nguyên du lịch cũng như nhóm khách hàng mục tiêu và khách hàng tiềm năng bị hấp dẫn, thu hút tới điểm du lịch, để từ đó xác định các chỉ số kỹ thuật của một công trình khách sạn khi đầu tư xây dựng và thiết kế.

Bởi vì, khả năng tiếp nhận của tài nguyên du lịch ở điểm du lịch sẽ quyết định đến quy mô của khách sạn tại điểm du lịch đó. Đồng thời, giá trị và sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch quyết định đến thứ hạng của khách sạn. Và khi các điều kiện khách quan tác động tới giá trị và sức hấp dẫn của tài nguyên du lịch thay đổi đòi hỏi có sự điều chỉnh về cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn cho phù hợp.

Kinh doanh khách sạn không chỉ phụ thuộc vào tài nguyên du lịch của điểm đến mà nó còn có tác động trở lại đối với tài nguyên du lịch. Vì, đặc điểm về kiến trúc, quy hoạch và đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn tại điểm du lịch có ảnh hưởng tới việc làm tăng hoặc giảm giá trị của tài nguyên du lịch tại các trung tâm du lịch.

Hoạt động kinh doanh khách sạn đòi hỏi dung lượng vốn đầu tư lớn

Lý do nào đòi hỏi kinh doanh khách sạn phải có vốn đầu tư lớn? Đó chính là yêu cầu về tính chất lượng cao của sản phẩm khách sạn, nó đòi hỏi các thành phần của cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn cũng có chất lượng cao. Khách sạn luôn mong muốn mang lại cho khách sự thoải mái nhất nên các trang thiết bị và cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn phải có chất lượng cao để đạt được mục tiêu của khách sạn.

Nhưng, các khách sạn khác nhau thì chất lượng các thành phần của cơ sở vật chất kỹ thuật của các khách sạn cũng khác nhau. Nghĩa là, chất lượng của các cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn sẽ tăng lên cùng với sự tăng lên của thứ hạng khách sạn. Sự sang trọng của các trang thiết bị được lắp đặt bên trong khách sạn chính là nguyên nhân đẩy chi phí đầu tư ban đầu của công trình khách sạn lên cao.

Ngoài ra, đặc điểm này còn xuất phát từ một số nguyên nhân khác: chi phí ban đầu cho cơ sở hạ tầng của khách sạn cao, chi phí đất đai cho một công trình khách sạn rất lớn.

Kinh doanh khách sạn đòi hỏi dung lượng lao động trực tiếp tương đối lớn

Sản phẩm khách sạn chủ yếu là dịch vụ hay mang tính chất phục vụ và sự phục vụ này không thể cơ giới hóa được mà chỉ được thực hiện bởi những nhân viên phục vụ trong khách sạn. Mặt khác, lao động trong khách sạn lại được chuyên môn hóa cao, thời gian lao động lại phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng của khách, mỗi ngày thường kéo dài 24/24 giờ.

Do vậy, khách sạn phải sử dụng một số lượng lớn lao động phục vụ trực tiếp. Với đặc điểm này, các nhà quản lý của khách sạn luôn phải đối mặt với các vấn đề khó khăn về chi phí lao động cao, khó mà cắt giảm chi phí này mà không làm ảnh hưởng xấu tới chất lượng dịch vụ của khách sạn.

Ngoài ra, nó còn gây khó khăn cả trong công tác tuyển mộ, lựa chọn và phân công bố trí nguồn nhân lực của mình. Trong điều kiện kinh doanh khách sạn theo mùa vụ thì việc giảm chi phí lao động một cách hợp lý là một thách thức đối với các nhà quản lý của khách sạn.

Kinh doanh khách sạn mang tính quy luật

Cũng như các ngành kinh doanh khác thì kinh doanh khách sạn cũng chịu sự chi phối của một số quy luật: quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế – xã hội, quy luật tâm lý của con người…

Chẳng hạn, kinh doanh khách sạn phụ thuộc vào tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên với những biến động lặp đi lặp lại của thời tiết khí hậu trong năm. Nó luôn tạo ra những thay đổi theo những quy luật trong giá trị và sức hấp dẫn của tài nguyên đối với khách du lịch. Từ đó, nó gây ra sự biến động theo mùa của lượng cầu du lịch đến các điểm du lịch.

Do đó tạo ra sự thay đổi theo mùa trong kinh doanh của khách sạn, đặc biệt là các khách sạn nghỉ dưỡng ở các điểm du lịch ở vùng biển và vùng núi. Dù chịu sự chi phối của bất kỳ quy luật nào đi nữa thì điều đó cũng đã gây ra những tác động tiêu cực hay tích cực đối với kinh doanh khách sạn.

Vấn đề đặt ra cho các khách sạn là phải nghiên cứu các quy luật và tác động của chúng đến khách sạn. Để từ đó, khách sạn chủ động đưa ra các giải pháp hữu hiệu để khắc phục những tác động bất lợi của chúng và phát huy những tác động có lợi nhằm phát triển hoạt kinh doanh của mình.

Hiện tại, Luận Văn Việt đang cung cấp dịch vụ hỗ trợ làm luận văn, tiểu luận chuyên ngành khách sạn, du lịch. Nếu bạn bận rộn không có thời gian để hoàn thành hay gặp bất cứ khó khăn nào trong việc hoàn thành bài luận, hãy để chúng tôi đồng hành cùng bạn giải quyết mọi vấn đề.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Khái Niệm Thần Kinh Học trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!