Đề Xuất 3/2023 # Khái Niệm Quản Lý Là Gì? Vì Sao Phải Hiểu Khái Niệm Quản Lý # Top 6 Like | Comforttinhdauthom.com

Đề Xuất 3/2023 # Khái Niệm Quản Lý Là Gì? Vì Sao Phải Hiểu Khái Niệm Quản Lý # Top 6 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Khái Niệm Quản Lý Là Gì? Vì Sao Phải Hiểu Khái Niệm Quản Lý mới nhất trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Khái niệm quản lý là gì? Vì sao phải hiểu khái niệm quản lý

định nghĩa

 về 

thống trị

quản lý được khái niệm là một công việc mà một người lãnh đạo học suốt đời không thấy chán và cũng là sự bắt đầu của những gì họ tìm hiểu. cai quản được cho biết như là nghĩa vụ của một nhà lãnh đạo thực thụ, nhưng không phải là sự bắt đầu để họ khai triển công việc. giống như vậy, có bao nhiêu nhà lãnh đạo tài ba thì có bấy nhiêu kiểu khái niệm và giải thích về cai quản.

Vậy suy cho cùng thống trị là gì? định nghĩa quản lý là yêu cầu tối thiểu nhất của việc lý giải vấn đề thống trị dựa trên lí luận giải và nghiên cứu quản lý học. Xét trên phương diện nghĩa của từ, cai quản thường được hiểu là chủ trì hay phụ trách một công việc nào đó.

bản thân định nghĩa cai quản có tính đa nghĩa cần có sự không giống biệt giữa nghĩa rộng và nghĩa hẹp. hơn nữa, do sự khác biệt về niên đại, thế giới, chế độ, nghề nghiệp nên thống trị cũng có nhiều lý giải, cho biết không giống nhau. Cùng với sự phát triển của cách thức thế giới hoá sản xuất và sự xây dựng rộng trong nhận thức của con người thì sự khác biệt về nhận thức và giải thích định nghĩa quản lí càng trở nên rõ rệt.

quản lý

 theo 

khái niệm

 của các trường phái 

thống trị

 học

– Tailor: “Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc gì và hãy để ý đến phương pháp tốt nhất, kinh tế nhất mà họ sử dụng ” .

– Fayel: “Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, công ty, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: plan, đơn vị, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. thống trị chính là thực hiện kế hoạch, đơn vị, chỉ đạo điều chỉnh và làm chủ ấy”.

– Hard Koont: “Quản lý là xây dựng và duy trì một nơi tốt giúp con người hoàn thiện một hướng dẫn kết quả mục đích đang định”.

– Peter F Druker: “Suy cho cùng, cai quản là thực tiễn. Bản chất của nó k nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó k nằm ở sự logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích”.

– Peter. F. Dalark: “Định nghĩa thống trị phải được hạn chế bởi nơi bên ngoài nó. Theo đó, quản lý gồm có 3 tính năng chính là: Quản tại saoanh nghiệp, cai quản giám đốc, quản lý công việc và nhân công”.

Chủ trương của Peter. F. Dalark là hạn chế công ty từ góc độ xã hội, lấy cai quản sử dụng chức năng chính của doanh nghiệp. vì vậy, cai quản trở thành chức năng và vai trò của tổ chức xã hội, nó cũng sẽ thông qua các doanh nghiệp góp phần xây dụng chế độ không gian mới để đạt được mục tiêu lý tưởng là “một xã hội tự do và phát triển“. Nếu k có quản lý kết quả thì công ty k thể tồn tại và từ đó k thể thiết lập một không gian tự do và phát triển.

Từ đó đủ sức thấy, cơ sở chính trong khắc phục độ khó của vấn đề là “quan điểm về hệ thống“, cơ sở chính trong khắc phục độ khó về thời gian là “quan niệm về sự chuyển động”. như vậy, đặc điểm lớn nhất trong luận của Peter F. Dalark là cách Nhìn hệ thống mở và chuyển động”. Đây cũng là quan điểm cốt lõi trong tư tưởng triết học về thống trị của ông.

Tư tưởng triết học về 

thống trị

 của Peter F. Dalark

Quản lý doanh nghiệp phải theo nguyên tắc: “lấy kết quả kinh tế thực tế làm nguyên tắc hoạt động, đây là một mẹo Quan sát tổng thể quét thành tích sử dụng cốt lõi”.

nguyên tắc quản lý dành cho giám đốc cần có động lực mạnh mẽ quản lý mục đích và làm chủ bản thân để họ trở thành một người giám đốc thông minh.

quản lý công việc thì nhấn mạnh: công việc cần có sức sản xuất và phải thông qua những công cụ đánh giá, tổng hợp, kiểm soát và thí nghiệm.

thống trị nhân lực coi trọng gốc nhân lực, làm cho họ có thời cơ, chủ động phát huy ưu điểm của mình, thoả mãn nhu cầu về chức năng và địa vị thế giới của họ trong công việc, đưa đến cho họ cơ hội, lợi ích như nhau để mỗi người thể hiện giá trị, hoài bão của mình.

tổng kết, quản lý là quan điểm chứ chẳng hề kỹ thuật, là tự do chứ chẳng phải bị khống chế, là Nhiệm vụ thực tế chứ không phải lý luận; là thành tích chứ chẳng hề tiềm năng, là trách nhiệm chứ chẳng phải quyền lực; là cống hiến chứ không hề thăng hến; là thời cơ chứ không phải chướng ngại; là dễ dàng chứ không phải khó khăn.

như chúng ta đều biết, quản lý thực chất cũng là một hành vi, vừa mới là hành vi thì cần phải có người gây ra và người chịu ảnh hưởng. tiếp theo nên có mục đích của hành vi, đặt ra câu hỏi tại sao làm như vậy? thành ra, để tạo dựng nên hoạt động cai quản trước hết nên có chủ thể quản lý: nói rõ ai là người quản lý? Sau đó cần định hình thị trường quản lý: cai quản cái gì? Cuối cùng cần định hình mục đích quản lý: thống trị vì cái gì?

Có được 3 nguyên nhân trên nghĩa là có được điều kiện cơ bản để hình thành nên hoạt động cai quản. song song cần quan tâm rằng, bất cứ hoạt động cai quản nào cũng không hề là hoạt động độc lập, nó cần được tiến hành trong nơi, điều kiện nhất định nào đó.

yếu tố

 tạo thành nên hoạt động 

thống trị

Với những nghiên cứu trên mọi hoạt động thống trị đều phải do 4 nguyên nhân cơ bản sau cấu thành: – Chủ thể cai quản, trả lời câu hỏi: do ai quản lý? – Khách thể quản lý, trả lời câu hỏi: cai quản cái gì? – mục đích thống trị, trả lời câu hỏi: quản lý vì cái gì?

– nơi và điều kiện tổ chức, trả lời câu hỏi: cai quản trong nơi nào?

Dựa trên chức năng, vai trò của những nguyên nhân trong thống trị kể trên và liên kết lôgic giữa chúng, có thể khái quát ý nghĩa cơ bản của thống trị. Thông thường mà nói, cai quản là hành vi mà những thành viên trong đơn vị thực hiện ở một môi trường nhất định nhằm nâng cao năng suất công việc, để đạt được mục đích của tổ chức.

Thực ra, nếu một mực truy đến cùng câu hỏi “quản lý là gì?” thì chính mình câu hỏi gần như không có trị giá. Cho dù chúng ta có bàn thảo, tìm hiểu ra sao, về mặt lí bàn luận mà nói, chúng ta luôn luôn k đạt được sự thống nhất, trên thực tế cũng không thể đưa ra một kết bàn luận chung. Nhưng chính vì câu hỏi “quản lý là gì?” có sức tác động sâu rộng đến mỗi một học giả nghiên cứu chủ đề cai quản, đến mỗi một người thực hiện công việc quản lý như vậy nên sử dụng rõ chủ đề này mới thực sự có ý nghĩa, mặc dù để làm rõ chủ đề “quản lý là gì?” quả thực là công việc không mấy không khó khăn.

thống trị

 là sự 

phối hợp

 của ba phương diện

Chúng ta hãy bàn về định nghĩa “quản lý” trên phạm vi rộng to hơn, quy mô hơn như trên phạm vi quốc gia chẳng hạn. Trong một tờ báo có đăng tải số liệu đo đạt năm 2001 cho biết: doanh thu bình quân đầu người nước Mỹ bằng 11 lần một số nước châu Á. doanh thu bình quân đầu người của Mỹ chẳng phải do một người Mỹ mà là trị giá bình quân của all người dân Mỹ tạo nên. Sự mẹo biệt về thu nhập bình quân này chẳng phải do sự mẹo biệt về chỉ số giỏi của người dân hai nước mà là do khả năng tương tác của họ khác nhau. Cụ thể nói đến công việc thì đó là phương thức cai quản và chiến lược cai quản của 2 nước là khác nhau.

có thể đưa ra kết bàn luận rằng: cai quản k không khó khăn chỉ là khái niệm, nó là sự kết hợp của 3 phương diện:

Thứ nhất, thông qua tập thể để xúc tiến tính tích cực của cá nhân. Thứ hai, điều hoà liên kết giữa người với người, giảm mâu thuẫn giữa hai bên. Thứ ba, gia tăng cường hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, thông qua hỗ trợ để làm được những việc mà một cá nhân không thể làm được, thông qua hợp tác xây dựng trị giá lớn hơn giá trị một mình – giá trị tập thể

kinh doanh

 và 

quản lý

muốn làm cho một công ty tăng trưởng tốt, ngoài công tác quản lý tốt, còn cần nghiên cứu phương hướng phát triển, mục tiêu phấn đấu và phương thức vận hành của công ty phụ thuộc tình ảnh thực tiễn trong và ngoài công ty, biến kết quả nghiên cứu thành sách lược khoa học và hành động thực tiễn để thu được ích lợi kinh tế lớn. Những điều này chính là hoạt động mua bán.

Từ ý nghĩa thông thường, mua bán và cai quản vừa có tính thống nhất, vừa có tính không giống biệt. Nhìn từ lịch sử, quản lý là sản phẩm của quá trình xã hội hoá lao động, còn mua bán là sản phẩm của kinh tế thương mại. Nhìn từ phạm vi vận dụng, thống trị được dùng trong mọi tổ chức, kinh doanh chỉ sử dụng trong doanh nghiệp. Trên phương diện mục tiêu, mục tiêu của quản lý là nâng cao năng suất của đơn vị, mục đích kinh doanh là nâng cao quyền lợi kinh tế. Nhìn từ content cấu thành, Fayel cho rằng mua bán gồm những phương diện sau:

– Hoạt động kỹ thuật (sản xuất, chế tạo, gia công). – Hoạt động thương mại (mua nguyên liệu, tiêu thụ, phân phối). – Hoạt động tài vụ (tập kết và sử dụng like đáng nhất nguồn vốn). – Hoạt động an ninh (bảo vệ tài sản và con người). – Hoạt động kế toán (hoá đơn tài chính, biểu phụ trách tài sản, vốn, hoạt động thống kê). – Hoạt động thống trị (kế hoạch, tổ chức, điều chỉnh, chỉ đạo, kiểm soát).

tính năng của mua bán chính là đảm bảo cho sáu hoạt động trên được tiến hành thuận tiện, để có được hiệu quả mua bán cao nhất. Từ đó đơn giản nhận thấy rằng, kinh doanh là all hoạt động kinh tế của một doanh nghiệp nhằm thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp ấy. Ở góc độ DN, thống trị không gồm có mua bán, mà kinh doanh gồm có cai quản. Phạm vi của kinh doanh rộng to quản lý, nội dung cũng phức tạp hơn.

cai quản

 và lãnh đạo

Trong không gian ngày nay, ở nơi nào chúng ta đủ nội lực nhìn thấy lãnh đạo: mỗi đất nước đều có Đảng cầm quyền và Chính phủ lãnh đạo; các doanh nghiệp đều có chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch điều hành, tổng giám đốc, giám đốc bộ phận lãnh đạo; quân đội cũng không thể rời xa sự lãnh đạo của các quan chức quân đội các cấp. Ngay cả các tổ chức phi chính phủ cũng có người đứng trên đỉnh có quyền uy lãnh đạo các member trong đơn vị.

Những nhà thống trị học có những quan niệm không giống nhau về khái niệm lãnh đạo, nhưng nội dung bản chất là giống nhau. Họ đều cho rằng lãnh đạo là người dẫn dắt cấp dưới thực hiện mục đích của tổ chức. thống trị và lãnh đạo đều có mục đích là thực hiện mục tiêu của đơn vị, nhưng chúng có điểm không giống biệt rõ rệt như sau:

* Lãnh đạo và cai quản k thuộc cùng một phạm trù.

Lãnh đạo là một tính năng của cai quản, thường được gọi là tính năng lãnh đạo, còn tính năng không giống của cai quản lại không hề là lãnh đạo. Ví dụ: công việc mà những người tham vấn trong tổ chức sử dụng là công tác quản lý, nhưng chẳng phải là công tác lãnh đạo. quản lý ở đây chỉ hành vi quản lý, công tác lãnh đạo vừa bao gồm hành vi thống trị, vừa gồm có hoạt động nghiệp vụ không giống. Ví dụ: một người lãnh đạo công ty cần gặp và tiếp nhân vật cần thiết, tham gia đàm phán, tham gia những hoạt động chung.

Thông thường, lãnh đạo chủ yếu là lãnh đạo con người, xử lý liên kết giữa người với người, đặc biệt là quan hệ cấp trên và cấp dưới. Đây là chủ đề cốt lõi trong hoạt động thống trị. Còn về quản lý, ngoài thống trị con người, phân khúc của thống trị còn gồm có tài chính, vật chất. thống trị k chỉ xử lý gắn kết giữa người với người mà còn phải xử lý mối gắn kết tài chính và vật chất, giữa vật chất và con người, giữa con người và tài chính. Phạm vi mà quản lý đề cập đến rộng hơn nhiều đối với lãnh đạo.

Lãnh đạo và thống trị thuộc 2 tầng hoạt động không giống nhau song chúng lại có quan hệ mật thiết khó tách rời. Hoạt động lãnh đạo hội tụ vào việc mang ra quyết sách, xác định mục đích, plan phấn đấu, vạch ra chính sách tương ứng và phương hướng lãnh đạo khu vực, ban lĩnh vực, tổ chức tiến lên phía trước… Còn quản lý tụ họp giữ vững và tăng trưởng cường hoạt động của đơn vị để đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu mà lãnh đạo vừa mới xác định.

Nguồn: https://gdnn.edu.vn/

Khái Niệm Và Đặc Điểm Quản Lý Hành Chính Nhà Nước

Khái niệm và đặc điểm quản lý hành chính nhà nước. Nội dung của quản lý hành chính nhà nước. Lấy ví dụ và phân tích về quản lý hành chính nhà nước.

Việt Nam đang tập trung phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đảm bảo mục tiêu này, bên cạnh việc tập trung các nguồn lực thì việc củng cố, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng, trong đó phải kể đến vai trò của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Đây là hoạt động tổ chức và điều hành nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản nhất của nhà nước trong quản lý xã hội. Chính vì vậy, việc đẩy mạnh phân cấp quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết, bởi đây sẽ là một nội dung quan trọng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức hành chính công ở Việt Nam.

Vậy, có thể hiểu như thế nào về quản lý hành chính nhà nước? Dưới góc độ pháp lý, quản lý hành chính nhà nước có những đặc điểm gì?

Luật Dương Gia sẽ cùng quý bạn đọc tìm hiểu về vấn đề này.

1. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước

Theo cách hiểu chung một cách khái quát nhất, quản lý chính là việc tác động định hướng lên một hệ thống nào đó nhằm đảo bảo hệ thống đó phát triển một cách trật tự và phù hợp với những quy luật được hướng tới. Trên cơ sở này có thể hiểu quản lý nhà nước là một hình thức của quản lý xã hội tuy nhiên có chứa đựng tính quyền lực của nhà nước và sử dụng chính quyền lực đó để điều chỉnh quan hệ nhằm đảm bảo mục tiêu duy trì và phát triển một cách trật tự. Từ đó đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.

Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động hành chính của cơ quan thực thi quyền lực nhà nước (quyền hành pháp) để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật, đó là Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp. Tuy hệ thống các cơ quan: quyền lực, xét xử và kiểm sát thực hiện quyền lập pháp và tư pháp không thuộc hệ thống quản lý hành chính nhà nước nhưng trong cơ chế vận hành của nó cũng có công tác hành chính như chế độ công vụ, công tác tổ chức cán bộ… và phần công tác này cũng phải tuân thủ những quy định thống nhất của nền hành chính nhà nước. Quyền hành pháp có 2 nội dung:

– Một là lập quy được thực hiện bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thực hiện pháp luật.

– Hai là quản lý hành chính nhà nước tức là tổ chức, điều hành, phối hợp các hoạt động kinh tế – xã hội để đưa luật pháp vào đời sống xã hội.

Như vậy, có thể hiểu quản lý hành chính nhà nước bản chất chính là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật nhà nước đối với các quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, do các cơ quan trong hệ thông quản lý hành chính từ Chính phủ ở Trung ương xuống Uỷ ban nhân dân các cấp ở địa phương tiên hành.

2. Đặc điểm quản lý hành chính nhà nước

Quản lý hành chính nhà nước có những đặc điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước

Tính quyền lực nhà nước là đặc điểm cơ bản nhất để thông qua đó phân biệt được hoạt động quản lý hành chính nhà nước với hoạt động quản lý mang tính xã hội khác. Quyền lực nhà nước trong quản lý hành chính nhà nước trước hết thể hiện ở việc các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nước thông qua phương tiện nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng được sử dụng là văn bản quản lý hành chính nhà nước. Bằng việc ban hành văn bản, chủ thể quản lý hành chính nhà nước thể hiện ý chí của mình dưới dạng các chủ trương, chính sách pháp luật nhằm định hướng cho hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật; dưới dạng quy phạm pháp luật nhằm cụ thể húa các quy phạm pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước và của cấp trên thành những quy định chi tiết để có thể triển khai thực hiện trong thực tiễn; dưới dạng các mệnh lệnh cá biệt nhằm áp dụng pháp luật vào thực tiễn, trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý; dưới những dạng mệnh lệnh chỉ đạo cấp dưới trong hoạt động, nhằm tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn; dưới dạng những thông tin hướng dẫn đối lập với cấp dưới nhằm đảm bảo sự thống nhất, có hệ thống của bộ máy hành chính nhà nước.

Theo quy định của pháp luật, chủ thể quản lý hành chính nhà nước Việt Nam bao gồm: cơ quan hành chính nhà nước và công chức của những cơ quan này; thủ trưởng của cơ quan nhà nước; các công chức nhà nước, cá nhân hoặc tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền quản lý hành chính đối với một số loại việc nhất định. Như vậy, đối tượng của quản lý hành chính nhà nước là các quan hệ xã hội phát sinh trên mọi lĩnh vực, thuộc đời sống dân cư, đời sống pháp luật và trong nội bộ của các cơ quan nhà nước. Thông qua đó, có thể xác định khách thể mà hoạt động quản lý hành chính nhà nước hướng đến là trật tự quản lý nhà nước trên lĩnh vực hành pháp.

Hành pháp là một trong ba quyền của quyền lực nhà nước thống nhất mang tính quyền lực chính trị. Chính phủ với tư cách là cơ quan hành pháp cao nhất (cơ quan chấp hành của Quốc hội) thực hiện quyền hành pháp cao nhất đối với toàn dân, toàn xã hội. Nhưng, Chính phủ thực hiện chức năng của mình thông qua hệ thống thể chế hành. chính của nền hành chính nhà nước cao nhất. Hành pháp là quyền lực chính trị; quản lý hành chính nhà nước là thực thi quyền hành pháp, nó phục tùng và phục vụ quyền hành pháp nhưng bản thân nó không phải là quyền lực chính trị.

Thứ ba, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành – điều hành của nhà nước

Có thể nói sự kết hợp giữa tính chấp hành và điều hành đã tạo thành một chỉnh thể thống nhất trong nội dung của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Đây cũng là đặc điểm cơ bản để phân biệt quản lý hành chính nhà nước với hoạt động lập pháp và tư pháp.

Thứ tư, hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính chủ động và sáng tạo

Tính chủ động sáng tạo còn thể hiện rõ nét trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước. Đây là đặc điểm tồn tại bởi chính bản thân sự phức tạp, đa dạng, phong phú của đối tượng quản lý hành chính nhà nước; đồng thời đòi hỏi chủ thể quản lý phải áp dụng biện pháp giải quyết mọi tình huống phát sinh một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, chủ động và sáng tạo không vượt ra ngoài phạm vi pháp luật quy định.

Thứ năm, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tính liên tục

Có thể nói hệ thống cơ quan quản lý hành chính nhà nước được liên kết chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến địa phương; hoạt động dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Nghĩa là cấp dưới phục tùng cấp trên, thực hiện mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên; đồng thời, cấp trên cũng phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, cấp dưới có quyền chủ động sáng tạo, tổ chức thực hiện pháp luật phù hợp.

Khác với hoạt động lập pháp và tư pháp, quản lý hành chính nhà nước luôn cần có tính liên tục, kịp thời và linh hoạt để đáp ứng sự vận động không ngừng của đời sống xã hội. Chính điểm đặc thù này được coi là một cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về tổ chức và hoạt động, quy chế công chức, công vụ của bộ máy hành chính nhà nước; tạo ra bộ máy hành chính gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong tổ chức, có đội ngũ công chức năng động sáng tạo, quyết đoán và chịu sự ràng buộc trách nhiệm đối với hoạt động của mình.

Mặt khác, việc tổ chức cơ cấu cơ quan quản lý hành chính nhà nước thành một khối thống nhất cũng góp phần bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động hành pháp. Khác với hoạt động lập pháp và tư pháp, quản lý hành chính nhà nước luôn cần có tính liên tục, kịp thời và linh hoạt để đáp ứng sự vận động không ngừng của đời sống xã hội.

Khái Niệm Quản Trị Chiến Lược Cho Tổ Chức Du Lịch Là Gì ?

Khái niệm về dịch vụ là gì ?

Dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp và khách hàng, cũng như nhờ các hoạt động của người cung cấp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng (ISO 9004-2:1991E). Dịch vụ là kết quả của những hoạt động không thể hiện bằng những sản phẩm vật chất, nhưng bằng tính hữu ích của chúng và có giá trị kinh tế như thương mại, y tế, giáo dục, du lịch, …

Khái niệm về tổ chức du lịch là gì ?

Tổ chức du lịch được xem là một tổ chức trung gian, một doanh nghiệp thực hiện chức năng tổ chức tham quan du lịch để :

– Bán hay đại lý bán các dịch vụ du lịch cho các nhà cung cấp bao gồm : cơ sở lưu trú, ăn uống, vận chuyển, tham quan, vui chơi, giải trí, …

– Bán các dịch vụ do chính mình cung cấp : hướng dẫn, dịch vụ vận chuyển, … và các thông tin về chuyến lữ hành như khí hậu, đặc điểm dân cư, giá cả, mua sắm, …

Đặc điểm của sản phẩm dịch vụ là gì ?

Những sản phẩm của du lịch có một số đặc điểm chung cho tất cả các sản phẩm về dịch vụ, có một số là riêng đối với sản phẩm của du lịch. Xét về bản chất, dịch vụ khác hàng hóa ở các đặc tính sau :

Dịch vụ không thể cầm, nắm, nếm, tìm hiểu kích thước và cất giữ nó. Chúng vô hình, làm cho chúng khó khăn để mua nhưng dễ dàng để phân phối. Tính vô hình của dịch vụ gây nên khó khăn trong vấn đề quản lý, điều hành và tổ chức. Chính vì vậy, người quản lý phải tạo nên một hình thức hữu hình của sự cung cấp dịch vụ, để khách hàng tiềm năng có thể dễ dàng liên hệ tới. Một đoạn video ngắn giới thiệu điểm đến nghĩ dưỡng mà khách hàng có thể xem từ nhà thông qua hệ thống Internet hay một tờ rơi giới thiệu những đặc trưng nổi bật trong chuyến đi, sẽ giúp khắc phục tính vô hình của dịch vụ.

Điều này, cho thấy tại sao chúng ta phải đầu tư nhiều sáng tạo, chi phí khi thiết kế chúng. Bên cạnh những dịch vụ đơn lẻ, còn có những gói dịch vụ, một gói dịch vụ có thể được định nghĩa như một sự phối hợp, sắp xếp trước các dịch vụ để chào bán, bán nó với giá bao gồm, không ít hơn 2 trong 3 yếu tố sau : vận chuyển, tiện nghi, dịch vụ du lịch khác không phụ thuộc đến vận chuyển hay tiện nghi, và được tính là một phần quan trọng của gói dịch vụ.

Quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm dịch vụ là không thể chia cắt, không thể tách rời nhau và phải tiến hành đồng thời. Để sử dụng tiện nghi của một chuyến du lịch, bạn và phương tiện vận chuyển phải du hành cùng một lúc. Và khác với hàng hóa, khách hàng sẽ có kinh nghiệm trực tiếp về sản phẩm của dịch vụ. Điều này có ảnh hưởng quan trọng đến sự kết nối các bộ phận trong công nghiệp dịch vụ này để làm hài lòng khách hàng. Trong công nghiệp dịch vụ, mọi thứ phải đúng lúc, ở mọi thời gian và bất cứ lỗi lầm ở bất kỳ khâu nào trong chuỗi cung cấp dịch vụ sẽ phải trả giá đắt, nghĩa là làm mất đi khách hàng tương lai tiềm năng.

Sản phẩm dịch vụ dễ hỏng vì được sản xuất và tiêu thụ đồng thời. Nếu không được bán ra, chúng không thể tiếp tục sản xuất, lưu trữ và bán trong tương lai. Một ghế xe lửa trống, một ghế máy bay trống, một phòng ngủ khách sạn trống, một tour du lịch Thái Lan không khách hàng, một tour du lịch Singapore Malaysia không khách hàng, một tour du lịch Campuchia không khách hàng, một tour du lịch Bali không khách hàng, một công ty du lịch không có khách hàng, … đồng nghĩa với sản phẩm dịch vụ đó không bán được, và mất cơ hội bán hàng mà không bao giờ thu lại được.

Tính dễ hỏng của sản phẩm dịch vụ gây nên một số khó khăn trong quản lý là khó đánh giá cân bằng giữa cung và cầu, vì nhu cầu thì thay đổi bởi nhiều yếu tố như con người, mùa vụ, kinh tế, xã hội, … khi thì nhu cầu tăng rất cao, nhưng cũng có lúc xuống rất thấp, còn cung cấp thì cố định và khó thay đổi trong ngắn hạn. Ví dụ, lượng phòng khách sạn không thể đột biến tăng nhanh, để đáp ứng nhu cầu của du khách đến trong một dịp lễ hội hay một dịp kỳ nghĩ mùa hè.

Từ đó, một thách thức đối với nhà quản trị là làm sao tổ chức đảm bảo hoạt động ở toàn bộ năng lực, ở thời gian nhiều nhất có thể. Nghĩa là, tổ chức cần thiết kế chiến lược thật cẩn thận theo hướng dự đoán thời gian dài nhất của mùa du lịch, ví dụ như mùa du lịch Thái Lan, mùa du lịch Singapore Malaysia, mùa du lịch Campuchia, mùa du lịch Bali Indonesia, … hoặc cung cấp các mức giá phù hợp để đáp ứng được tối đa nhu cầu của khách hàng với thời gian nhiều nhất.

Sản phẩm dịch vụ không giống sản phẩm hàng hóa hữu hình được sản xuất hàng loạt từ nhà máy. Ví dụ, cùng đi du lịch trên một chuyến tàu lửa, 2 khách hàng sẽ có 2 ý kiến không bao giờ giống nhau về chuyến đi ấy. Điều này, có nghĩa là sản phẩm dịch vụ là định hướng con người, các yếu tố con người đóng vai trò quan trọng chủ yếu. Vì vậy, các yếu tố con người và các yếu tố khác nhau trong chuỗi cung ứng dịch vụ sẽ không bao giờ là đồng nhất với nhau. Tính không đồng nhất, tạo nên một số khó khăn trong quá trình cung cấp dịch vụ vì :

– Hành vi của mỗi người là khác nhau, nên sản phẩm cung cấp cho mỗi con người cũng sẽ có một số cảm nhận khác biệt bởi khách hàng.

– Tổ chức khó đảm bảo rằng nhân viên của mình sẽ luôn có những biểu hiện tốt trong khả năng và quá trình giao tiếp, quan hệ với khách hàng ở mọi thời điểm. Hơn thế nữa, tổ chức không thể có tác động ảnh hưởng đến khách hàng trong quá trình họ đang tiêu thụ sản phẩm dịch vụ đó. Để giải quyết khó khăn này, điều quan trọng là : tổ chức phải cung cấp nhiều nhất thông tin về sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, vì với lượng thông tin của sản phẩm dịch vụ đầy đủ hơn, khách hàng sẽ có cơ sở để cảm nhận, đánh giá sản phẩm dịch vụ chính xác hơn. Người trực tiếp quan hệ với khách hàng phải đảm bảo có đủ trình độ, khả năng và quyền hạn để giao tiếp và thỏa thuận với số đông khách hàng.

Bên cạnh việc tạo ra khó khăn cho tổ chức thì tính không đồng nhất cũng tạo ra một cơ hội cho tổ chức du lịch. Với tính không đồng nhất, khách hàng sẽ thực sự bị thu hút bởi việc sử dụng sản phẩm dịch vụ có sự khác biệt đó. Họ sẽ rất buồn và không tham gia mua sắm sản phẩm dịch vụ của tổ chức, nếu các điểm đến du lịch hay các chuyến lữ hành đều giống hệt nhau. Vì vậy, tạo ra sự khác biệt của từng khách sạn trong chuỗi khách sạn của tổ chức nhưng vẫn đảm bảo theo đúng hình ảnh thương hiệu của khách sạn, là điều mà nhà quản trị phải lưu ý trong việc xây dựng và lựa chọn chiến lược kinh doanh. Các tập đoàn khách sạn lớn như Marriot, Hyatt, Accor, … đã làm được điều này.

Khi khách hàng mua một món hàng, họ luôn có một tài liệu minh chứng về quyền sở hữu của họ đối với hàng hóa đó, ví dụ như hóa đơn mua hàng, quyền sở hữu được dịch chuyển từ người bán hàng sang người mua hàng, nhưng khi khách hàng mua một dịch vụ thì họ sẽ không nhận được bất kỳ một chuyển nhượng tài sản nào. Ví dụ, thuê một phòng khách sạn trong vài ngày, khách hàng chỉ có quyền sử dụng phòng đó trong số ngày mà họ đã thuê. Bởi vậy, trong dịch vụ, chỉ có việc chuyển quyền sử dụng từ người cung cấp dịch vụ sang người tiêu thụ dịch vụ, chứ không có việc chuyển quyền sở hữu.

Các yếu tố cụ thể của du lịch là gì ?

Riêng trong ngành công nghiệp du lịch, một số yếu tố cụ thể có thể được bổ sung là : chi phí cao, thời vụ, rào cản vào ra, sự phụ thuộc lẫn nhau, tác động đối với xã hội, tác động bởi cú sốc bên ngoài. Những yếu tố này, tuy không phải là duy nhất đối với ngành du lịch, nhưng nó làm nên sự khác biệt giữa sản phẩm dịch vụ du lịch, với sản phẩm của những ngành công nghiệp khác, và nó có ảnh hưởng quan trọng cho việc quản trị chiến lược du lịch.

Chi phí cho du lịch thường là cao đối với người tiêu dùng, khác với dịch vụ hàng hóa, khi mua một tour du lịch hay mua một vé máy bay quốc tế hay vé máy bay nội địa, người tiêu dùng thường có những cân nhắc nhất định, và thực tế, đó là khoản tiêu dùng khá lớn trong một năm. Do đó, khi mua dịch vụ này, họ thường so sánh với những dịch vụ thay thế. Đặc điểm này là quan trọng khi xây dựng chiến lược, và phải được đặc biệt chú ý trong hoạt động marketing quảng bá dịch vụ.

Tính thời vụ du lịch là những biến động lặp đi lặp lại hàng năm của cung và cầu dịch vụ du lịch. Nó chịu tác động của một số nhân tố nhất định như khí hậu, phân bổ thời gian sử dụng ngày nghỉ phép trong năm. Do nhu cầu du lịch là không giống nhau giữa các tháng trong năm, nên tạo ra các thời kỳ có lượng cầu khác nhau :

– Mùa du lịch chính : lượng khách du lịch là lớn nhất.

– Trước và sau mùa du lịch chính : lượng khách hàng ít hơn, nhưng vẫn cao hơn trung bình trong năm.

– Trái mùa du lịch : lượng khách du lịch là ít nhất.

Độ dài và cường độ du lịch của thời vụ du lịch là không như nhau, đối với các loại hình khác nhau. Vì vậy, một trong những cách quản trị có thể đáp ứng vấn đề này là phát triển những sản phẩm dịch vụ đa dạng của tổ chức, có được hoặc mua lại trước một số dịch vụ những tổ chức khác vào các thời điểm khác nhau trong năm.

Ở một số lĩnh vực của du lịch, việc thiếp lập công việc kinh doanh hoặc rời bỏ kinh doanh là khá dễ dàng, nghĩa là rào cản gia nhập hay rời bỏ ngành là thấp. Hầu hết các dịch vụ lữ hành bao gồm kỳ nghĩ đều được ký kết hợp đồng hoặc được bán cho khách hàng khi được yêu cầu. Trong các chi phí, phần lớn và chi phí in ấn, phát hành tờ rơi và hoạt động marketing quảng bá dịch vụ đến các đại lý, khách hàng. Lúc này, đơn vị lữ hành chưa phải mua dịch vụ từ các nhà điều hành tour cho đến khi khách hàng trả tiền mua dịch vụ. Như vậy, không xãy ra rủi ro của việc không bán được hoặc không lưu giữ hàng tồn kho. Vì vậy, một số tổ chức có thể được xem là thành công trong một phân khúc thị trường riêng biệt, và không khó khăn gì cho một đối thủ cạnh tranh khi học cung cấp một sản phẩm dịch vụ tương tự.

Công nghiệp du lịch có thể bao gồm 5 thành phần : chỗ ở, điểm tham quan, vận chuyển, tổ chức lữ hành, tổ chức điểm đến. Mỗi thành phần trong 5 thành phần trên có thể chia thêm thành những thành phần phụ. Một số trong số đó như tổ chức lữ hành, nhà điều hành tour, … loại hoạt động theo lợi nhuận. Trong khi một số khác ở tổ chức điểm đến như bảo tàng, vườn quốc gia, … thường được điều hành hoạt động theo hướng phi thương mại. Điều quan trọng là du hoạt động theo hướng nào, các thành phần trên đều có liên kết với nhau, dựa vào nhau, nghĩa là chúng phụ thuộc lẫn nhau. Nếu một thành tố thất bại trong cung cấp dịch vụ nó sẽ tác động xấu đến các thành tố khác.

Poon đã xác định 5 lực lượng quan trọng : người tiêu dùng, công nghệ, sản phẩm dịch vụ, quản trị và các điều kiện khung. Người tiêu dùng ngày nay rất nhạy cảm với tác động của những gì họ tiêu thụ, họ ngày càng hiểu biết, có kinh nghiệm nhiều hơn và càng khó tính hơn trong tiêu dùng. Vì vậy, nhà quản trị cần có những nghiên cứu và cố gắng tìm hiểu sự thay đổi này để tạo ra năng lực cạnh tranh cao hơn của tổ chức bằng cách thiết kế những sản phẩm dịch vụ đáp ứng thị hiếu, ngày càng gia tăng của khách hàng. Tiếp đến, các hoạt động marketing, quảng bá, phân phối, và định giá được thiết kế và thực thi thích hợp.

Công nghiệp du lịch dễ bị tác động bởi những cú sốc từ bên ngoài, ngoài tầm kiểm soát của nhà quản trị như chiến tranh, bão lụt, khủng bố, ô nhiễm, … Những tác động này ảnh hưởng rất nhanh đến du lịch. Một nhà điều hành tour du lịch đến duy nhất một quốc gia sẽ dễ bị tổn thương nếu quốc gia này có những sự kiện xãy ra ngoài ý muốn. Cách tốt nhất là tổ chức điều hành tour ở nhiều điểm đến khác nhau sẽ làm giảm rủi ro và thiệt hại sẽ được giảm rất nhiều.

Quản trị chiến lược cho tổ chức du lịch là gì ?

*** Bạn có thể cần xem lại hai bài viết này :

Một định nghĩa được sử dụng rộng rãi vì nó chỉ ra những điều tốt nhất mà chiến lược có được “Chiến lược là sự xác định các mục tiêu và mục đích dài hạn của doanh nghiệp, và sự chấp nhận chuỗi các hành động cũng như phân bổ nguồn lực cần thiết để thực hiện các mục tiêu này”. Quản trị chiến lược là một bộ các quyết định quản trị, và các hành động xác định hiệu suất dài hạn của một công ty. Quản trị chiến lược bao gồm các hành động liên tục như phân tích môi trường cả bên trong lẫn bên ngoài, xây dựng chiến lược, thực thi chiến lược và đánh giá, kiểm soát chiến lược.

Dịch vụ là một trong hai sản phẩm cơ bản, nó là vô hình và kết quả của hoạt động tương tác giữa người cung cấp và khách hàng. Dịch vụ có các đặc điểm là vô hình, không thể chia cắt, dễ hỏng, không đồng nhất và không thể sở hữu. Công nghiệp dịch vụ có những yếu tố cần thiết để quản trị là chi phí cao, mang tính thời vụ, phụ thuộc lẫn nhau, rào cản vào ra phụ thuộc vào quy mô đầu tư và có tác động đến xã hội cũng như môi trường.

TS Hà Nam Khánh Giao THS Lê Thái Sơnhttps://tampacifictravel.com

khái niệm chiến lược

ví dụ về quản trị chiến lược

mô hình quản trị chiến lược

quản trị chiến lược chương 2

vai trò của quản trị chiến lược

bản chất của quản trị chiến lược

slide bài giảng quản trị chiến lược

giáo trình quản trị chiến lược neu

ngành du lịch là gì

khách du lịch là gì

kinh tế du lịch là gì

các loại hình du lịch

hệ thống du lịch là gì

trung tâm du lịch là gì

du lịch là gì theo luật du lịch

lịch sử hình thành và phát triển của du lịch thế giới

bài tập marketing du lịch

ý tưởng marketing du lịch

ví dụ về marketing du lịch

quản trị marketing du lịch là gì

xu hướng về marketing du lịch

marketing du lịch là làm những việc gì

chiến lược marketing du lịch đến năm

chiến lược marketing cho sản phẩm du lịch mới

Link topic https://tampacifictravel.com/khai-niem-quan-tri-chien-luoc-cho-to-chuc-du-lich-la-gi.html

Khái Niệm Khách Hàng Là Gì

Trong kinh doanh mọi cửa hàng, doanh nghiệp thường hay nhắc tới “KHÁCH HÀNG” những có bao nhiêu người hiểu đúng khái niệm khách hàng là gì. Trong bài viết này, CRMVIET sẽ tổng kết và đưa ra chính xác khái niệm về khách hàng là gì.

Khách hàng (customer là gì) là những cá nhân hay tổ chức mà doanh nghiệp đang nổ lực Marketing hướng tới. Họ là người ra quyết định mua sắm. Khách hàng là đối tượng thửa hưởng những đặc tính chất lượng của sản phẩm – dịch vụ.

Và chính khách hàng cũng là nhân tố chính trong các chiến lược CRM. Vậy thì CRM là gì? Bạn có thể hiểu đơn giản CRM là quản lý mối quan hệ khách hàng.

Trước đây, khi đề cập tới khách hàng người ta chỉ nghĩ đến những đối tượng bên ngoài tổ chức có nhu cầu mua hàng mà tổ chức đó cung cấp.

Tuy nhiên khi thời gian dần trôi qua, khái niệm về khách hàng cũng dần được thay đổi mở rộng ra. Khách hàng không chỉ còn là những đối tượng bên ngoài doanh nghiệp mà còn tồn tại những đối tượng bên trong doanh nghiệp. tìm hiểu chi tiết về từng loại khách hàng.

2.1 Khách hàng là gì ở bên ngoài doanh nghiệp

Như đề cập tới ở trên, đó là những đối tượng nằm bên ngoài doanh nghiệp có nhu cầu mua sắm hàng hóa của doanh nghiệp tổ chức sản xuất. họ là những người mà bạn có thể giao dịch trực tiếp hay qua điện thoại. Bao gồm:

Doanh nghiệp hoặc người làm kinh doanh (nhà cung cấp, ngân hàng, đối thủ cạnh tranh)

Cơ quan nhà nước, tổ chức tình nguyện

Chủ doanh nghiệp cần xác định rõ đây là những khách hàng tiềm năng, truyền thống hay là những người trực tiếp đem lại doanh thu lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vì vậy chủ doanh nghiệp cần có những nhắm lôi kéo, níu giữ chân khách hàng sử dụng sản phẩm mà bạn cung cấp.

2.2 Khách hàng là gì bên trong doanh nghiệp (khách hàng nội bộ)

Là những người làm việc trong doanh nghiệp cung cấp sản phẩm dịch vụ, trong các bộ phận, phòng ban nằm trong quy trình chăm sóc khách hàngcủa doanh nghiệp.

. Nói cách dễ hiểu là nhân viên trong công ty là người trực tiếp sản xuất và tiếp xúc với sản phẩm.

Nhân viên công ty cũng dễ dàng trở thành khách hàng trung thành nhất. Chính vì vậy, mở rộng mối quan hệ với các nhân viên là điều cần thiết.

III. Vai trò của khách hàng đối với doanh nghiệp

Để hiểu rõ hơn về khái niệm về khách hàng thì hiểu vai trò của khách hàng trong thời buổi kinh tế ngày nay là không thể tránh khỏi.

Trong điều kiện kinh tế phát triển, cạnh tranh khốc liệt thì khách hàng trở nên có vài trò hết sức quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp.

Là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Chính vì thế mà nhiều doanh nghiệp khẳng định rằng ” Thứ quý giá nhất của công ty chúng tôi là KHÁCH HÀNG “.

Cũng dễ hiểu thôi hàng hóa sản phẩm sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu mua hàng của khách hàng (người tiêu thụ). Nếu như không có khách hàng thì sản phẩm sẽ bị ứ đọng không tiêu thụ được. hậu quả là doanh nghiệp bị phá sản.

Trên thực tế, 1 sản phẩm – dịch vụ không chỉ có 1 nhà cung cấp mà còn có rất nhiều mặt hàng thay thế đa dạng.

Ví dụ: thay vì ăn cơm có thể thay thế bằng phở, miến,…

Chính vì điều này đã đem lại quyền lựa chọn cho khách hàng. Doanh nghiệp nào cung cấp sản phẩm tốt, có dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt sẽ được khách hàng lựa chọn.

Nếu như khách hàng không hài lòng với sản phẩm – dịch vụ của một doanh nghiệp họ sẵn sàng tìm đến sản phẩm dịch vụ khác mà có thể thay thế hoàn hảo. Một doanh nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm sẽ không được chấp nhận trên thị trường.

Như vậy, doanh nghiệp tồn tại trên thị trường nhờ vào việc cung cấp sản phẩm và họ không có lựa chọn nào khác ngoài cạnh tranh khách hàng. Sự sống còn của doanh nghiệp phụ thuộc vào điều đó. Tóm lại, khách hàng là những người đem lại doanh thu, lợi nhuận, chi trả mọi hoạt động trong doanh nghiệp.

Kết luận

Sau khi đọc xong bài viết này, chắc hẳn bạn đã có cái nhìn sâu sắc hơn về khái niệm khách hàng là gì cũng như vai trò và tầm quan trọng của khách hàng đối với doanh nghiệp như thế nào. Hãy đem lại cho khách hàng những sản phẩm và dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt nhất.

IV. Cách quản lý khách hàng hiệu quả thời đại 4.0

Rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong việc quản lý khách hàng, có thể kể đến như:

Để giải quyết bài toán về quản lý khách hàng thì các nhà phát triển đã sáng tạo ra phần mềm Crm, giúp doanh nghiệp có thể giải quyết được tất cả những vấn đề ở trên, tự động gửi …giúp doanh số tăng trưởng đột biến.

Trải nghiệm DÙNG THỬ MIỄN PHÍ phần mềm chăm sóc khách hàng tại:

Bạn đang đọc nội dung bài viết Khái Niệm Quản Lý Là Gì? Vì Sao Phải Hiểu Khái Niệm Quản Lý trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!