Đề Xuất 5/2023 # Giải Quyết Hài Hòa Quan Hệ Giữa Lợi Ích Cá Nhân Và Lợi Ích Xã Hội Trong Điều Kiện Kinh Tế Thị Trường Ở Việt Nam Hiện Nay # Top 14 Like | Comforttinhdauthom.com

Đề Xuất 5/2023 # Giải Quyết Hài Hòa Quan Hệ Giữa Lợi Ích Cá Nhân Và Lợi Ích Xã Hội Trong Điều Kiện Kinh Tế Thị Trường Ở Việt Nam Hiện Nay # Top 14 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Giải Quyết Hài Hòa Quan Hệ Giữa Lợi Ích Cá Nhân Và Lợi Ích Xã Hội Trong Điều Kiện Kinh Tế Thị Trường Ở Việt Nam Hiện Nay mới nhất trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Thứ tư, 18 Tháng 3 2020 20:09

(LLCT) – Trong giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh đổi mới hiện nay, Đảng ta xác định: “Bảo đảm lợi ích, sự kết hợp hài hòa các lợi ích và phương thức thực hiện lợi ích công bằng, hợp lý cho mọi người, cho các chủ thể, nhất là lợi ích kinh tế”(1). Chính vì vậy, việc giải quyết các quan hệ lợi ích một cách hài hòa, nhất là giữa lợi ích cá nhân (LICN) và lợi ích xã hội (LIXH) chính là tạo động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Bài viết tập trung làm rõ vai trò, thực trạng và đề xuất giải pháp giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội ở nước ta hiện nay.

Từ khóa: quan hệ lợi ích, lợi ích cá nhân, lợi ích xã hội.

1. Vai trò của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội

Lợi ích là một trong những động lực hoạt động của con người, của sự biến đổi xã hội và là một trong những vấn đề căn bản, có ý nghĩa quyết định bản chất các mối quan hệ trong xã hội. Suy cho cùng, sự phát triển xã hội là kết quả của những hoạt động có ý thức của con người “đang theo đuổi những mục đích nhất định”. Lợi ích chính đáng là động cơ thôi thúc hành động của mỗi con người; việc giành, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp bao giờ cũng là động lực mạnh mẽ nhất, trực tiếp nhất thôi thúc con người ta hoạt động. Lợi ích chính là nhân tố quan trọng nhất trong chuỗi quy định nhân quả dẫn dắt sự hoạt động của con người: nhu cầu – lợi ích – mục đích – hoạt động. Ở góc độ xã hội, lợi ích là động lực của quần chúng nhân dân trong các cuộc cách mạng và là nguyên nhân sâu xa của mọi mâu thuẫn xã hội. Mỗi lợi ích đều có những chủ thể xác định và mối quan hệ giữa các lợi ích, đặc biệt giữa LICN và LIXH, tạo nên những vector thúc đẩy hoạt động của con người và sự vận động của xã hội theo những chiều hướng khác nhau, mạnh yếu khác nhau. Trong đó, quan hệ giữa LICN và LIXH là quan hệ lợi ích căn bản của xã hội, chi phối đến sự phát triển của cá nhân và xã hội.

Lợi ích cá nhân, đó là tất cả những lợi ích vật chất, tinh thần gắn liền với từng cá nhân cụ thể và dùng để thỏa mãn các nhu cầu riêng tư cụ thể của cá nhân đó, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân; bao gồm: lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị,… Lợi ích xã hội là cái phản ánh quan hệ nhu cầu của xã hội và là cái dùng để thỏa mãn nhu cầu chung của toàn xã hội về một (một số) đối tượng (vật chất, tinh thần) nhất định, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, thể hiện các quan hệ cơ bản và lâu dài của xã hội. LIXH ở đây không phải là lợi ích của một nhóm người, một giai tầng, mà đó là lợi ích của cả dân tộc, trong đó có lợi ích chung của các cá nhân cấu thành dân tộc, của cả dân tộc và không mâu thuẫn với lợi ích chung của nhân loại tiến bộ.

Tuy nhiên, cũng cần thấy thêm, LICN không chỉ đơn giản nằm trong mỗi cá nhân cụ thể, nó có thể nằm trong một chủ thể nhất định nào đó khi ta xét lợi ích của chủ thể đó với tư cách độc lập, tách biệt với các chủ thể khác, tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chủ thể của LICN chỉ được xét ở góc độ là ở trong mỗi cá nhân. Chủ thể của LIXH thông thường đó chính là Đảng, Nhà nước, nó có thể biểu hiện ở phạm vi nhà nước Trung ương, hay chính quyền ở địa phương. Trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, chủ thể của quan hệ giữa LICN và LIXH được biểu hiện chủ yếu thông qua quan hệ lợi ích giữa cá nhân và Nhà nước.

Quan hệ giữa LICN và LIXH bao gồm cả mặt thống nhất và mâu thuẫn với nhau; trong đó thường thể hiện ở trạng thái mất cân bằng do các chủ thể lợi ích khi thì đề cao lợi ích này, khi thì đề cao lợi ích kia. Điều này thể hiện sự phức tạp của quan hệ lợi ích trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trong quá trình thực hiện lợi ích của mình, mỗi chủ thể luôn có xu hướng bảo vệ lợi ích thiết thân, khó chấp nhận từ bỏ lợi ích bản thân, dù điều đó có thể tạo mâu thuẫn, xung đột với các chủ thể lợi ích khác. Thực chất của việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH trong điều kiện KTTT ở Việt Nam hiện nay là quá trình tác động vào việc nhận thức và thực hiện lợi ích của cá nhân và xã hội, tạo ra sự hài hòa, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

2. Thực trạng giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội

Từ khi đổi mới (1986) đến nay, vấn đề giải quyết quan hệ lợi ích giữa các chủ thể, nhất là giữa LICN và LIXH đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm giải quyết, nhất là trong lĩnh vực sở hữu và phân phối, tạo động lực cho sự phát triển của cá nhân và xã hội. Quá trình đó đã đạt được những kết quả nhất định, đó là:

Thứ nhất, cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội bước đầu đã được quan tâm giải quyết theo hướng thúc đẩy sự phát triển

Có thể khẳng định, lợi ích cá nhân chính đáng được tạo điều kiện phát triển trên nhiều phương diện qua đó tạo cơ sở bước đầu giải quyết lợi ích xã hội phù hợp và ngược lợi ích xã hội bước đầu được thực hiện tốt đã tạo tiền đề, điều kiện để lợi ích cá nhân chính đáng được thực hiện. Những kết quả tích cực trong phát triển kinh tế – xã hội cùng việc thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội (ASXH) và phúc lợi xã hội (PLXH) trong những năm qua đã tạo lập những giá trị mới của xã hội, tạo lập sự công bằng về cơ hội trong việc hưởng thụ, tiếp cận các giá trị của phát triển. Đời sống của mỗi cá nhân không ngừng được nâng lên, quyền và lợi ích chính đáng được pháp luật bảo vệ, nhất là trong sở hữu và phân phối. Lợi ích của các giai tầng cụ thể, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế trong xã hội, đồng bào vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo được quan tâm đúng mức, tỷ lệ hộ nghèo giảm, ASXH và PLXH được thực hiện tốt… Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 10 năm qua luôn ở trên 6,5%, trong đó, năm 2018, tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt trên 240 tỷ USD, tăng 7,08% so với năm 2017, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.587 USD, tăng 198 USD so với năm 2017, tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều năm 2018 ước tính 6,8%, giảm 1,1 điểm phần trăm so với năm 2017, trên 90% dân số tham gia bảo hiểm y tế(2)… Gần 800.000 người khuyết tật không có khả năng lao động được nhận trợ cấp hằng tháng(3).

Hơn 30 năm đổi mới vừa qua, chúng ta từng bước khắc phục được tư duy tuyệt đối hóa lợi ích xã hội trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Đó là việc chủ thể sở hữu tư nhân được thừa nhận và tạo điều kiện phát triển, kinh tế tư nhân từ chỗ không được thừa nhận, đến chỗ thừa nhận và hiện nay coi đó “là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong cơ cấu GDP luôn ở mức trên 43% GDP (so với khu vực kinh tế nhà nước 28,9% GDP và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài FDI là 18% GDP) và “kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 39% tổng đầu tư toàn xã hội và tiếp tục tăng lên, năm 2012 là 385 nghìn tỷ đồng và năm 2015 đạt 490 nghìn tỷ đồng”(4).

Thứ hai, Đảng và Nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện ngày một tốt những chủ trương, chính sách đúng đắn về tạo cơ hội phát triển của cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội

Từ khi đổi mới đến nay, Đảng, Nhà nước đã ban hành và thực hiện ngày một tốt trên thực tế những chủ trương đúng đắn về tạo cơ hội phát triển cho cả LICN và LIXH trên mọi lĩnh vực, nhất là trong sở hữu và phân phối.

Sự thay đổi chủ trương, chính sách về sở hữu. Trước hết, về chủ thể sở hữu: chuyển từ việc chỉ thừa nhận vai trò độc tôn của chủ thể sở hữu là Nhà nước đối với các tư liệu sản xuất cơ bản sang công nhận nhiều chủ thể sở hữu (nhà nước, tư nhân, hỗn hợp). Về đối tượng sở hữu, ngoài những đối tượng sở hữu truyền thống như đất đai, tài nguyên, máy móc,… xuất hiện các đối tượng sở hữu mới như các sản phẩm trí tuệ, thông tin, thị trường, thương hiệu, tên miền internet, tài nguyên số, không gian vũ trụ, thậm chí là sở hữu cơ hội phát triển… đều được công nhận và đóng vai trò to lớn hơn trong sự phát triển kinh tế – xã hội. Về hình thức sở hữu: nếu như trước đổi mới, chúng ta chỉ thừa nhận hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, thì từ đổi mới đến nay, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, các hình thức sở hữu ở Việt Nam đã được ghi nhận bao gồm: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu tư bản nhà nước, sở hữu có yếu tố nước ngoài và sở hữu hỗn hợp; tương ứng với đó là có nhiều thành phần kinh tế tương ứng.

Sự thay đổi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về phân phối cũng đã có tác động rất lớn đến việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH ở nước ta hiện nay. Từ khi đổi mới đến nay, Đảng, Nhà nước đã có những thay đổi chủ trương, chính sách về phân phối một cách hợp lý hơn. Tại Đại hội IX, Đảng chỉ rõ: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; đồng thời phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội”(5). Về chủ thể phân phối, đã xác định rõ vai trò của ba chủ thể phân phối là Nhà nước, doanh nghiệp và thị trường, trong đó, thị trường là một kênh phân phối nguồn lực hiệu quả, phân phối thu nhập quan trọng và góp phần đắc lực vào phân phối cơ hội phát triển cho mọi chủ thể kinh tế tự do làm giàu trong lĩnh vực mà pháp luật không cấm nhằm tối đa hóa lợi ích riêng của mình, đồng thời góp phần phát triển kinh tế – xã hội. Về khách thể phân phối, không chỉ là phân phối về thu nhập, mà đó còn là phân phối nguồn lực, cơ hội phát triển, phân phối phát triển. Đó còn là sự đa dạng về hình thức phân phối như Đại hội XII khẳng định, đó là: phân phối theo lao động, phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh, phân phối thông qua PLXH, phân phối thông qua hệ thống ASXH.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được nêu trên, việc giải quyết quan hệ giữa LICN và LIXH cũng còn những hạn chế nhất định, đó là:

Thứ hai, tình trạng đề cao LICN không chính đáng, vi phạm LIXH và LICN khác gây ra những tổn hại cho sự phát triển xã hội vẫn có xu hướng phức tạp. Hiện tượng buôn lậu, trốn thuế của nhiều cá nhân, doanh nghiệp; các hiện tượng hàng giả, hàng kém chất lượng; thực phẩm “bẩn”, cho đến những hành vi xây dựng nhà ở, khu đô thị, phá vỡ quy hoạch chung của thành phố, xây nhà không phép, lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, hành lang an toàn, không gian công cộng, xây dựng các chung cư không theo quy định, không đảm bảo tiện ích theo quy định xảy ra ở nhiều nơi, nhất là ở thành phố lớn; những hiện tượng xe quá khổ, quá tải, xâm hại, lấn chiếm các công trình công cộng, công trình Nhà nước… đang làm cho LIXH mà Nhà nước là đại diện bị những tổn hại rất lớn. Cho đến những hiện tượng trộm, cướp ở nhiều nơi, đặc biệt là ở các thành phố lớn trở thành nỗi bất an của người dân; tình trạng lừa đảo, các mô hình kinh doanh đa cấp biến tướng, “chơi hụi”, cho vay nặng lãi – tín dụng “đen”, đòi nợ thuê… đang gây những hệ lụy không nhỏ đối với cuộc sống của nhiều cá nhân, gia đình, gây phức tạp tình hình kinh tế – xã hội.

Thứ ba, nhiều lợi ích xã hội chưa được thực hiện một cách phổ quát song vẫn còn tồn tại những biểu hiện đề cao lợi ích xã hội, trong khi lợi ích cá nhân chính đáng, chưa được chú ý một cách đúng mức. Cụ thể khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư còn lớn, đời sống một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn; thu nhập, đời sống của người lao động còn thấp; lương của cán bộ, công chức, viên chức chưa cao; tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo ở vùng sâu, vùng xa, nhất là trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao (một số huyện, xã lên đến 50%), cả nước có khoảng 1% số người vẫn trong tình trạng thiếu đói. Một số nội dung của ASXH (chính sách bảo đảm việc làm, thu nhập và giảm nghèo; chính sách bảo hiểm xã hội; chính sách trợ giúp xã hội nhằm hỗ trợ đột xuất và thường xuyên cho người dân; chính sách dịch vụ xã hội cơ bản) và PLXH chưa được thực hiện tốt, vẫn diễn ra “nghịch lý an sinh xã hội”, thể hiện đặc biệt rõ qua việc so sánh tỷ trọng trợ cấp ASXH mà các hộ gia đình giàu và nghèo nhận được. Nhóm nghèo nhất nhận được 6,6% tổng chỉ tiêu trợ cấp ASXH tương đương 70.000 đồng/năm/người, trong khi đó nhóm giàu nhất nhận được 39% tương đương với 660.000 đồng/người /năm tiền chi tiêu trợ cấp ASXH(7).

Ở khía cạnh khác, mặc dù, Đảng ta khẳng định: các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, tuy nhiên có thể thấy lĩnh vực kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực, thậm chí gặp những rào cản trong quá trình phát triển (nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà, nhận thức về kinh tế tư nhân còn chưa thông suốt, tình trạng tham nhũng, tham ô, sách nhiễu đối với kinh tế tư nhân còn nhiều…). Chính vì vậy, trong năm 2018, số doanh nghiệp tư nhân thành lập mới chưa đáp ứng nhu cầu đề ra, hoạt động của kinh tế tư nhân chưa có những khởi sắc lớn, chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế của thành phần kinh tế này đối với quá trình phát triển đất nước.

3. Giải pháp giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Một là, nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải quyết quan hệ lợi ích, nhất là giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội

Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích để các chủ thể lợi ích xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ lợi ích, tránh xung đột lợi ích giữa các chủ thể. Cần nâng cao nhận thức của các chủ thể về tầm quan trọng của sự thống nhất lợi ích. Mỗi chủ thể cần được giáo dục để tự đặt lợi ích của bản thân trong mối quan hệ với các lợi ích khác. Trong mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, chủ thể cá nhân cần nhận thức được rằng, lợi ích xã hội chỉ có thể đạt được khi mỗi cá nhân cố gắng thực hiện tốt các lợi ích chính đáng của mình thông qua việc tích cực học tập, lao động, rèn luyện, hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ; mặt khác chủ thể của lợi ích xã hội chủ yếu là Đảng, Nhà nước cũng cần nhận thức được rằng, muốn thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, phải quan tâm đến lợi ích thiết thực của mọi cá nhân, của từng đối tượng, nhất là quan tâm đến những người có công với cách mạng, những đối tượng yếu thế trong xã hội, thực hiện tốt ASXH và PLXH.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện chính sách về sở hữu, phân phối và tổ chức thực hiện tốt các chính sách trên thực tế để giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội

Theo đó, cần tiếp tục thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật, tạo cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các nguồn lực. Cụ thể hóa các quy định của pháp luật để đảm bảo quyền bình đẳng trong tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế, trong đó, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản của mọi chủ thể. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển khu vực kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp trong một số lĩnh vực, nhất là với doanh nghiệp nhà nước.

Ba là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách tiền lương, kết hợp thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội

Cùng với đó, Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt chính sách ASXH, PLXH trong toàn xã hội, nhất là đối với các đối tượng còn nhiều khó khăn như nông dân, công nhân, những đồng bào vùng sâu, vùng xa, đối tượng chính sách… thực hiện tốt chính sách xóa đói, giảm nghèo, thực hiện thật tốt các chế độ, chính sách, nâng cao đời sống đối với các đối tượng có công với cách mạng, đảm bảo cho họ được hưởng thụ các giá trị căn bản của sự phát triển như đời sống vật chất, y tế, giáo dục, hưởng thụ các giá trị văn hóa – xã hội khác. Thực hiện tốt chính sách tiền lương theo Đề án cải cách tiền lương đã được ban hành, đảm bảo tiền lương thực sự đảm bảo cuộc sống của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, đặc biệt đối với người công nhân; có chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với những nhân tài của từng lĩnh vực, địa phương.

Bốn là, thực hiện các giải pháp đảm bảo công khai, minh bạch nhằm ngăn chặn những hành vi tiêu cực như tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm

Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt hơn nữa các biện pháp công khai, minh bạch để phòng ngừa các hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí. Nâng cao năng lực, hiệu quả sử dụng tài sản công, phát huy tốt trách nhiệm giải trình, thực hiện tốt các biện pháp công khai tài chính, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức… Trên phạm vi toàn xã hội, cần phải tiến tới một xã hội minh bạch, trên cơ sở quản lý tốt việc sở hữu tài sản của mỗi cá nhân, xây dựng một xã hội hạn chế dùng tiền mặt, quản lý chặt chẽ các nguồn tiền trong thanh toán… Mặt khác, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm tội tham ô, tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng kém chất lượng… đây là những hành vi phá hoại nghiêm trọng các quan hệ lợi ích, gây tổn hại tới cả LICN và các mục tiêu của LIXH.

Năm là, khuyến khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng của mình đồng thời bảo đảm lợi ích xã hội

Cần tích cực khuyến khích mỗi cá nhân tích cực vươn lên trong học tập, lao động, sản xuất – kinh doanh, lập thân, lập nghiệp bằng nhiều cơ chế, chính sách cụ thể, nhất là trong khởi nghiệp nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho sự phát triển. Thông qua các biện pháp giáo dục – đào tạo, tuyên truyền, các hoạt động thực tiễn phong phú để họ thấy rằng, để thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích của bản thân, trước hết cần có sự cố gắng, rèn luyện, cần cù, vượt khó vươn lên, tích cực lao động, đóng góp cho xã hội; đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, vi phạm các lợi ích chính đáng của bản thân từ các chủ thể khác; loại bỏ tư tưởng tự mãn, ỷ lại; có cái nhìn tích cực về các vấn đề của xã hội, tìm ra những cơ hội cho sự phát triển của mỗi cá nhân.

Có thể nói, nhìn một cách tổng thể, qua hơn 30 năm đổi mới, LICN chính đáng đã được khuyến khích phát triển, LIXH đạt được những kết quả bước đầu quan trọng; các mâu thuẫn, xung đội đối kháng về lợi ích cơ bản giữa cá nhân và xã hội được giảm thiểu tối đa, xã hội ổn định; gia tăng tính tích cực của các chủ thể, thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu, lợi ích của cá nhân và xã hội, thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội.

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận số 12-2019

(1) ĐCSVN: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.222.

(2) GDP năm 2018 tăng 7,08% – cao nhất trong 7 năm qua, https: laodong.vn.

(3) Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Chương trình phát triển Liên Hợp quốc: Tăng trưởng vì mọi người – Báo cáo phát triển con người Việt Nam năm 2015 về tăng trưởng bao trùm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2016, tr.114.

(4) Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận, thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.69.

(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), phần II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.70.

(6) Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng – 5 năm nhìn lại, http://noichinh.vn.

(7) Lê Ngọc Hùng: “Chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam – Thực trạng và một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5-2017, tr.62.

Học viện Chính trị khu vực IV

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Tài Liệu Mối Quan Hệ Giữa Lợi Ích Cá Nhân Và Đạo Đức Xã Hội Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Ở Việt Nam Hiện Nay

Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay Nguồn: chúng tôi

cá nhân (cố nhiên là lợi ích cá nhấn chính đáng), tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cua mỗi cá nhân về nhiều phương diện, nhất là phương diện tài năng và trí tuệ. Nói cách khác, cơ chế thị trường là môi trường thuận lợi để phát huy vai trò chủ thể cá nhân, là cơ chế tất cho nhân cách phát triển trong điều kiện hiện nay. Để góp phần làm rõ vấn đề này, theo chúng tôi, cần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội, cũng như sự tác động của lợi ích cá nhân đối với đạo đức xã hội ấy trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay nói riêng: Song, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chủ yếu bàn đến sự tác động của lơi ích cá nhân đối với đạo đức xã hội, chứ chua bàn đến sự tác động ngược trở lại của đạo đức xã hội đối với lợi ích cá nhân. Khi nghiên cứu hệ thống các động lực thúc đẩy con người hành động, người ta thường nhắc đến vai trò của nhu cầu, lợi ích, cũng như của các động cơ tư tưởng. Hơn 100 năm trước, Ph.Ăngghen đã từng chỉ ra rằng: “Đáng lẽ phải giải thích hoạt động của mình từ nhu cầu của mình thì người ta lại quen giải thích hoạt động của mình từ tư duy của mình “. Sở dĩ như vậy vì nhu cầu là đòi hỏi của con người, của từng cá nhân, của các nhóm xã hội khác nhau hay của toàn xã hội muốn có những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển. Có thể nói, không chỉ các nhà triết học mácxít, mà cả các nhà triết học phương Tây cũng thừa nhận vai trò to lớn của nhu cầu trong việc thúc đẩy hoạt động của con người. Chính vì vậy, một trong những tiêu chuẩn của xã hội hiện đại là khả năng đáp ứng nhanh chóng các nhu cầu mới nảy sinh. Nhu cầu là động lực hết sức quan trọng thúc đẩy con người hành động. Sự thoả mãn nhu cầu ấy, đối với chủ thê hành động, là lợi ích. Vì vậy, lợi ích là cái đáp ứng nhu cầu và nó chỉ có nghĩa là lợi ích khi được đặt trong quan hệ với nhu cầu. Ngoài mối quan hệ đó, cái được coi là lợi ích không còn là lợi ích nữa. Xét về bản chất, lợi ích chính là mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài chủ thể với nhu cầu của chủ thể, còn về mặt nội dung, lợi ích là cái thoả mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu. Trong mối quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích, nhu cầu quyết định lợi ích. Do đó, nó là cơ sở của lợi ích, còn.lợi ích thì ngược lại, xuất phát’ từ nhu cầu, dựa trên nhu cầu là sự thể hiện của nhu cầu. Như vậy tính chất động lực của nhu cầu được thực hiện không phải một cách trực tiếp mà gián tiếp thông qua lợi ích, còn lợi ích là khâu trực tiếp hơn cả trong việc tạo nên động cơ tư tưởng thúc đẩy con người hành động nhằm thoa mãn nhu cầu. Nhu cầu ngày càng lớn thì sự hấp dẫn của lợi ích đối với chủ thể càng lớn và do đó động cơ tư tưởng nảy sinh trên cơ sở của lợi ích này cũng càng cuốn hút con người, thúc đẩy con người lao vào hành động. Chính C.Mác cũng đã từng nhấn mạnh, tất cả những gì mà con người đấu tranh để giành lấy đều gắn liền với lợi ích của họ. C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng

Nhận Diện Mối Quan Hệ Ba Bên Giữa Nhà Nước, Thị Trường Và Xã Hội Ở Việt Nam Hiện Nay

Để có thể phát triển nhanh, bền vững đất nước, quản lý phát triển xã hội một cách hợp lý, có hiệu quả, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương nhận diện rõ và xây dựng cơ chế phù hợp, bảo đảm xử lý hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Trong quá trình ấy, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay, cả về lý luận lẫn thực tiễn, là cần nghiên cứu một cách có hệ thống, nhận diện rõ mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội ở Việt Nam hiện nay, tạo cơ sở khoa học cho những biện pháp xử lý hài hòa, phát huy được những mặt tích cực của mối quan hệ này và phòng, tránh được những hệ lụy tiêu cực phái sinh.

Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội – một trong những quan hệ lớn cần được nhận diện, xử lý tốt trong giai đoạn phát triển mới

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) lần đầu tiên xác định phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, gồm: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội XII của Đảng điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cùng với đó, Đảng ta đã bổ sung mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường” thành mối quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”, chính thức coi đây là mối quan hệ lớn thứ chín trong những mối quan hệ lớn cần được nhận diện, nghiên cứu có hệ thống trên bình diện lý luận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, cơ chế tác động, mối quan hệ giữa Nhà nước với xã hội, giữa thị trường với xã hội hay quan hệ ba bên giữa ba chủ thể này ở Việt Nam lại khá phức tạp, là vấn đề khoa học mới mẻ, chưa được nghiên cứu chuyên sâu.

Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là mối quan hệ lớn, cơ bản, đòi hỏi phải giải quyết hài hòa trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội và giải quyết tốt mối quan hệ này cũng chính là góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh, bền vững; đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. Nhận thức ngày càng rõ hơn về vị trí, vai trò và ý nghĩa của mối quan hệ này, Đảng ta nhấn mạnh đến tính cấp thiết của việc nhận diện, nhận thức lại cơ cấu, chức năng để xử lý hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong điều kiện mới. Hội nghị Trung ương 5 khóa XII yêu cầu: “Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng”(1).

Đánh giá chung về 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2030, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Về nhận thức lý luận, mục tiêu, đặc trưng, những phương hướng cơ bản và những quan hệ lớn mang tính quy luật trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được bổ sung, cụ thể hóa, phát triển với những nhận thức quan trọng…; đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; hoàn thiện mô hình tổ chức của Nhà nước,… coi trọng kiểm soát quyền lực nhà nước; giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân”(2). Đồng thời, dự kiến bổ sung thêm mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là mối quan hệ thứ mười và lưu ý trong nhận thức và giải quyết các quan hệ lớn, cần chú trọng hơn đến bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữ vững độc lập, tự chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Nhận thức bước đầu về mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội

Trên thực tế, mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội ở Việt Nam hiện nay là mối quan hệ bất đối xứng, được quản lý, xây dựng, hoàn thiện nhằm góp phần phát triển nhanh, bền vững đất nước. Có quan điểm cho rằng, mối quan hệ ba bên này là mối quan hệ ba bên đồng đẳng, cân bằng, ngang bằng theo kiểu “chủ nghĩa bình quân” và sơ đồ hóa thành một tam giác cân. Quan niệm về mối quan hệ ba bên đều nhau như vậy có lẽ là không thực sự phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn. Cần thấy rằng, theo cách tiếp cận lý thuyết hệ thống tổng quát, lý thuyết cấu trúc – chức năng và lý thuyết vị thế – vai trò xã hội, mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là mối quan hệ ba bên bất đối xứng. Bởi vì, trong mối quan hệ này, Nhà nước có vị trí, vai trò của cả một hệ thống tổ chức nhà nước gồm các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương để thực hiện quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong khi đó, thị trường chủ yếu có vị trí, vai trò định hướng, quy định và điều tiết hành vi, hoạt động trao đổi, mua bán, giao dịch của các bên tham gia thị trường, trong đó “Nhà nước” dưới hình thức tổ chức là các cơ quan nhà nước và xã hội dưới hình thức là các công dân, “người dân” có thể đóng vai người mua, người tiêu dùng và cả người cung cấp những sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nhất định. Mối quan hệ ba bên bất đối xứng thể hiện ở chỗ, “xã hội” dưới hình thức biểu hiện cụ thể là “người dân” có vị trí, vai trò của người làm chủ đất nước, vừa có quyền lực vừa có trách nhiệm tham gia quản lý xã hội, quản lý phát triển xã hội, thực hiện các quy định của Hiến pháp, pháp luật và các chính sách của Nhà nước.

Mối quan hệ ba bên bất đối xứng này phụ thuộc rất nhiều vào vị trí, vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội và chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện kinh tế – xã hội trong nước và bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam với thế giới.

“Nhà nước” – vị trí, vai trò và giới hạn

Khái niệm “Nhà nước”: Theo nghĩa chung nhất, nhà nước là một thiết chế quyền lực đặc biệt được thiết lập trong phạm vi lãnh thổ nhất định để duy trì trật tự xã hội và thực thi chủ quyền quốc gia; có bộ máy cai trị và quản lý xã hội; có quyền ban hành luật pháp, thu thuế, xét xử. Nhà nước tồn tại, hoạt động dựa trên quyền lực nhà nước, bản chất của nó chính là quyền lực chính trị được biểu hiện dưới hình thức quyền lực công. Nguồn gốc của quyền lực nhà nước là do dân ủy quyền. Tuy nhiên, nhân dân không ủy quyền toàn bộ quyền lực của mình cho nhà nước, mà chỉ ủy quyền cho nhà nước những việc mà nhân dân không thể tự mình làm được, giữ lại cho mình những quyền có thể làm tốt hơn nhà nước để tự quản cuộc sống và thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài xã hội sau khi đã ủy quyền.

Ở Việt Nam hiện nay, theo nghĩa rộng, Nhà nước là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Theo nghĩa hẹp, Nhà nước là hệ thống các cơ quan chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương các cấp thực hiện quyền hành pháp. Theo nghĩa hẹp này, các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương có khả năng cụ thể hóa các đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong quản lý sự phát triển xã hội.

Tuy nhiên, ở đây, cần phải “bóc tách” và nhận diện rõ hơn các phương diện khác nhau của Nhà nước: 1- Là chủ thể quản lý có quyền ban hành luật pháp, thể chế, chính sách và sử dụng các công cụ, nguồn lực để can thiệp vào thị trường và xã hội; 2- Là chủ thể trên thị trường thực hiện các hoạt động đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước, phải bình đẳng trước pháp luật, cạnh tranh bình đẳng trên thị trường; 3- Là nhà đầu tư công, nguồn lực nhà nước được đầu tư, phân bổ không chỉ theo chiến lược, kế hoạch, quy hoạch mà còn phải theo cơ chế thị trường để dẫn dắt đầu tư tư nhân, tối đa hóa hiệu quả, nhất là đầu tư phát triển các dịch vụ công ích, dịch vụ sự nghiệp công; 4- Là đối tác của doanh nghiệp trong các hợp đồng đối tác công tư, các đại diện của nhà nước phải có pháp nhân công đủ thẩm quyền để đàm phán, ký kết và đặt mình bình đẳng với doanh nghiệp, nếu sai phạm hợp đồng đều phải chấp nhận tranh tụng và chấp hành phán quyết công bằng của tòa án; 5- Là “hộ tiêu dùng” lớn nhất, mua sắm của Chính phủ cũng phải vận dụng các nguyên tắc cạnh tranh của thị trường, bảo đảm quyền tiếp cận của tư nhân, các tổ chức xã hội đối với các gói đấu thầu mua sắm công, các đơn đặt hàng cung ứng dịch vụ công; 6- Là trọng tài phân xử các tranh chấp trên thị trường và xã hội, cơ quan tư pháp phải thật sự độc lập, công tâm, minh bạch, đề cao công lý.

Vị trí và vai trò của Nhà nước trong mối quan hệ ba bên: Xuất phát từ nội hàm khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, có thể thấy, Nhà nước luôn đứng ở vị trí tầm cao để thực hiện quyền quản lý nhà nước đối với sự phát triển của đất nước, trong đó có sự tham gia của “thị trường” và “xã hội” và nhiều thành phần khác. Nhà nước có vị trí và vai trò thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất đối với thị trường, xã hội và mối quan hệ giữa thị trường và xã hội bảo đảm đất nước phát triển nhanh, bền vững. Trong mối quan hệ ba bên này, cả thị trường và xã hội đều không thực hiện quyền lực nhà nước và có vị trí, vai trò khác hẳn và do vậy, khó có thể ngang bằng, cân bằng khi so sánh với Nhà nước.

Giới hạn và “khiếm khuyết” của nhà nước: 1- Thể chế, chính sách thiên vị vẫn thường xảy ra khi nhà nước chịu tác động bởi “nhóm trục lợi” hướng lái chính sách để giành lợi ích cho nhóm này mà hy sinh lợi ích của nhóm khác; 2- Phân bổ nguồn lực vụ lợi vẫn xảy ra đối với những nhà nước không thật sự tôn trọng quy luật của kinh tế thị trường trong phân bổ nguồn lực, sử dụng thô bạo quyền lực nhà nước khi phân bổ nguồn lực; 3- Đặc quyền, đặc lợi và tham nhũng là khuyết tật bẩm sinh của mọi nhà nước, nhưng nhìn chung, các nhà nước sở hữu và nắm quá nhiều quyền hành phân bổ nguồn lực thì tình trạng đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng sẽ nghiêm trọng hơn; 4 - Tính khó lường phản ứng của thị trường. Thông tin về tình hình thị trường, tương tác trên thị trường và diễn biến thị trường rất khó lường để Nhà nước có thể ra quyết định được kịp thời và sát hợp; 5- Nhà nước khó thỏa mãn nhu cầu xã hội rất đa dạng, cụ thể của các cộng đồng xã hội vi mô. Do giới hạn thông tin và nguồn lực nên Nhà nước chỉ tập trung cho những nhu cầu cơ bản, thiết yếu, còn không ít nhu cầu đa dạng, cụ thể, trực tiếp, thậm chí là “sát sườn” của người dân lại dễ bị “bỏ sót”, nhất là với các tầng lớp yếu thế.

“Thị trường” – vị trí và vai trò; một số đặc điểm, biến đổi mới và “khuyết tật”

Cơ chế thị trường: là quá trình tương tác giữa các chủ thể kinh tế để hình thành giá cả, phân bổ nguồn lực, xác định khối lượng và cơ cấu sản xuất. Cơ chế thị trường là cách tự phân bổ nguồn lực một cách tối ưu, với giá là trục xoay của thị trường phát tín hiệu; trên cơ sở đó, nhà sản xuất đưa ra quyết định đầu tư, sản xuất, kinh doanh.

Các quy luật của thị trường: Với nghĩa là hệ thống các thể chế, thị trường là hệ thống các quy luật có khả năng định hướng, điều chỉnh hành vi, hoạt động của các bên tham gia thị trường. Quy luật thị trường là mối quan hệ phổ biến nảy sinh và thể hiện một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Các quy luật này quy định, chi phối hành vi, hoạt động của người mua và người bán, buộc những người này phải tuân thủ nếu không sẽ bị loại khỏi thị trường hoặc bị thị trường trừng phạt một cách phù hợp. Cần nhận thức rõ hơn một số quy luật cơ bản của thị trường là quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật giá trị thặng dư, quy luật cạnh tranh và cho dù dưới bất kỳ hình thức biểu hiện nào thì thị trường, với các quy luật tự nhiên của nó, luôn có khả năng định hướng, quy định và điều chỉnh hành vi, hoạt động của người mua và người bán tham gia thị trường để trao đổi, mua bán và giao dịch đối với các hàng hóa, dịch vụ nhất định.

Vị trí và vai trò của thị trường trong mối quan hệ ba bên: Theo nghĩa hẹp, “thị trường” có thể được nghiên cứu, khảo sát thông qua khái niệm “doanh nghiệp tư nhân”, bởi lẽ đây là một chủ thể tiêu biểu, điển hình của thị trường. Tất cả quy luật của thị trường đều có thể biểu hiện và hoạt động thông qua doanh nghiệp; cụ thể, doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh để sản xuất, lưu thông và bán hàng hóa trên thị trường đáp ứng nhu cầu của xã hội với chi phí thấp nhất có thể để tạo được giá trị thặng dư nhiều nhất có thể. Như vậy, trong quan hệ ba bên, thị trường – cụ thể ở đây là doanh nghiệp – có vị trí, vai trò của người sản xuất, kinh doanh, người bán các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ cho Nhà nước và “xã hội”. Trong mối quan hệ ba bên này, thị trường có vị trí bình đẳng như “xã hội” thể hiện ở việc doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước và đồng thời, phải tuân thủ pháp luật và thực hiện chính sách của Nhà nước. Nhưng do Nhà nước và “xã hội” đồng thời lại có thể đóng vai “người tiêu dùng” và “người mua”, nên thị trường cần phải coi Nhà nước và “xã hội” như khách hàng, như “Thượng đế” để có thể phục vụ tốt nhất nhằm bán được hàng hóa, dịch vụ và đổi lại là sẽ thu được tiền bán với mức sinh lời nhiều nhất có thể. Tuy nhiên, so với “xã hội”, Nhà nước luôn có vị trí và vai trò của “khách hàng lớn nhất”, có thể mua với lượng hàng lớn và trả những khoản tiền khổng lồ nên thị trường phải đặc biệt coi trọng vị khách hàng đặc biệt này. Trong khi đó, “xã hội” luôn có vị trí, vai trò của khách hàng thường xuyên đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng và duy trì chiến lược bán hàng, chiến lược phục vụ phù hợp với vị “khách hàng thường xuyên” đó.

Mặt trái và “khuyết tật” của thị trường: 1- Các thế lực có lợi thế trên thị trường thường tìm cách tối đa hóa lợi nhuận bằng cách hướng lái chính sách của Nhà nước, giành lấy các cơ hội tiếp cận thông tin và nguồn lực có lợi, hình thành nên “nhóm trục lợi”, đe dọa đến lợi ích của các lực lượng ít có lợi thế hoặc các nhóm yếu thế trong xã hội; 2- Doanh nghiệp thường chỉ quan tâm đến những ai có khả năng thanh toán, chỉ theo đuổi và làm cái gì có lợi nhuận, mà thường ít chú ý đến các hàng hóa công cộng, lợi ích công cộng (khi ít hoặc không đem lại lợi nhuận); 3- Kinh tế thị trường lấy phân bổ kết quả sản xuất theo lao động, theo vốn đóng góp, gây nên tình trạng phân cực giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, nhất là tình trạng nghèo của những người không có cơ hội tiếp cận nguồn lực, người gặp rủi ro, có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt; 4- Tìm kiếm, tối đa hóa lợi nhuận nên doanh nghiệp thường có thiên hướng hy sinh các lợi ích công cộng, thậm chí có doanh nghiệp còn chấp nhận cả những việc làm suy đồi đạo đức (như hy sinh môi trường, sức khỏe của người tiêu dùng, làm hàng giả, hàng kém chất lượng…); 5- Tính tự phát của kinh tế thị trường gây các cuộc khủng hoảng chu kỳ hoặc suy thoái, gây ra các hệ lụy khôn lường cả về kinh tế và xã hội.

“Xã hội” - vị trí, vai trò và những hạn chế

Khái niệm “xã hội”: Theo nghĩa rộng, xã hội là xã hội Việt Nam đang được xây dựng nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Theo nghĩa rộng của xã hội, Nhà nước là một trong các thành phần tạo nên xã hội. Tuy nhiên, xã hội theo nghĩa rộng này chưa cho thấy rõ “thị trường”, mà thị trường chỉ thể hiện đặc biệt rõ trong quá trình xây dựng “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, theo nghĩa rộng, khái niệm “xã hội” được dùng để chỉ hệ thống xã hội với các thành phần, cấu trúc, các mối quan hệ xã hội phức tạp.

Theo nghĩa hẹp, “xã hội” được hiểu là “khu vực thứ ba” nằm cạnh Nhà nước và thị trường, gồm các giai tầng, cộng đồng (gồm cả gia đình), nhóm xã hội, được tập hợp thông qua các tổ chức xã hội hình thành một cách tự nguyện dựa trên các nguyên lý lợi ích (hiệp hội ngành nghề), nghề nghiệp (tổ chức xã hội nghề nghiệp), địa vực (làng/bản), huyết thống – hôn nhân (dòng họ, gia đình), đức tin (tôn giáo), nhân đạo, hữu nghị, sở thích…

Tổ chức xã hội: Là thiết chế tập hợp hội viên theo nguyên tắc tự nguyện, tự lập, tự dưỡng, hoạt động phi quyền lực chính trị, phi lợi nhuận, dựa vào các thể chế xã hội thành văn hoặc bất thành văn, theo đuổi giá trị xã hội và lợi ích của giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội nhất định. Khác với Nhà nước sử dụng biện pháp hành chính, doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm động lực, thì các tổ chức xã hội hướng dẫn hành vi của thành viên dựa trên các giá trị xã hội. Tổ chức xã hội vừa là một cơ sở xã hội của Nhà nước; vừa là thiết chế bảo vệ, thúc đẩy quyền lợi chính đáng, hợp pháp của thành viên; vừa là khách hàng của doanh nghiệp tham gia trên thị trường. Động lực của các tổ chức xã hội là giá trị xã hội và lợi ích chính đáng của mỗi giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội rất đa dạng.

Vị trí và vai trò của xã hội: Như đã phân tích, mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là mối quan hệ ba bên bất đối xứng. Tính chất bất đối xứng này thể hiện rõ qua việc xã hội (theo nghĩa rộng) có thành phần là Nhà nước và đòi hỏi Nhà nước phải trở thành Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, Nhà nước luôn gặp giới hạn và không phải lúc nào cũng đem lại lợi ích tối đa cho tất thảy người dân, nhất là những người yếu thế;… vì vậy, các tổ chức xã hội là cơ chế bổ sung cho những giới hạn của Nhà nước đối với các “vùng trung gian”, “vùng lõm” nhằm bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội.

Trong mối quan hệ ba bên bất đối xứng đang được xây dựng, nhân tố xã hội (“xã hội” theo nghĩa hẹp) là người dân đóng vai trò làm chủ xã hội lớn, tham gia quản lý nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, xã hội theo nghĩa hẹp, cụ thể là những người dân, có vị thế, vai trò của chủ thể xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bị quy định bởi trình độ, điều kiện kinh tế thị trường cụ thể. Mục tiêu của phát triển xã hội theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp là phát triển con người; trong đó, thị trường có thể tạo ra động lực, cơ chế thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo các điều kiện và nguồn lực vật chất cho phát triển xã hội. Nhà nước quản lý mối quan hệ ba bên giữa Nhà nước, thị trường và xã hội bằng pháp luật, chính sách nhằm bảo đảm phát triển xã hội hài hòa, bền vững.

Những hạn chế cơ bản của “xã hội”: 1-  Các giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội rất đa dạng, tính thuần nhất không cao, dễ tạo ra tình trạng phân tán, cát cứ, tản mát, vô chính phủ, nếu thiếu Nhà nước mạnh và thiếu cơ chế huy động, tập hợp xã hội thống nhất; 2-  Các tổ chức xã hội chỉ quan tâm đến lợi ích cục bộ của thành viên mà ít quan tâm đến lợi ích chung của toàn xã hội, hình thành nên các nhóm lợi ích đa dạng nhiều khi xung đột nhau hoặc xung đột với lợi ích chung, gây nên tình trạng bất cân xứng trong xã hội, làm tổn hại lợi ích các nhóm xã hội yếu thế; 3- “Xã hội” thường đề cao thể chế xã hội, cả thành văn và bất thành văn, gắn với tính tự quản, tự nguyện, dễ tạo ra những “lệ riêng” xa rời luật pháp, thậm chí phủ nhận luật pháp dưới các hình thức “bất tuân dân sự”; 4- Hoạt động phi lợi nhuận cũng là khu vực mà doanh nghiệp dễ lợi dụng tìm cách trốn thuế, chuyển giá; còn nếu dựa vào hỗ trợ từ ngân sách nhà nước thì lại dễ bị hành chính hóa, làm hạn chế tính tự chủ, tính đại diện bảo vệ cho quyền lợi hội viên; 5- “Hội chứng đám đông” của “xã hội” thường gây nên các hệ lụy khó lường cả về kinh tế và chính trị, nhất là hoạt động mua bán cổ phiếu, bất động sản hay các hành vi có tính đám đông khi bị kích động chính trị chống đối Nhà nước.

Sự cần thiết phải bổ khuyết lẫn nhau để mỗi chủ thể trong mối quan hệ ba bên này phát huy được điểm mạnh và hạn chế được điểm yếu, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, hài hòa, bền vững

Nhà nước vừa theo đuổi lợi ích công cộng, vừa bảo vệ lợi ích của lực lượng chính trị cầm quyền. Nhà nước pháp quyền, dân chủ thường lấy lợi ích công cộng làm mục tiêu cao nhất cho tổ chức và hoạt động của mình thông qua tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế trên thị trường, mở rộng phúc lợi cho người dân, tìm cách chính đáng hóa lợi ích của lực lượng cầm quyền trong lợi ích xã hội. Tuy vậy, không phải lúc nào Nhà nước cũng đạt được lợi ích công cộng ở mức lý tưởng, bởi lẽ Nhà nước luôn gặp giới hạn khi tác động đến “vùng trung gian”, “vùng lõm”, nhất là trong xử lý mối quan hệ giữa nhóm xã hội có lợi thế và nhóm xã hội bất lợi thế, giữa vùng thuận lợi và khó khăn, giữa hoạt động kinh doanh theo thị trường và hoạt động phi thị trường… Vì vậy, các tổ chức xã hội đóng vai trò như là cơ chế bổ sung cho những giới hạn của Nhà nước đối với các “vùng trung gian”, “vùng lõm” nhằm bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội.

Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, với tư cách là nhà đầu tư, Nhà nước không chỉ là nhà quản lý mà còn là đối tác của doanh nghiệp, có vị thế bình đẳng trên thị trường và bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước vận hành trong nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ, hội nhập quốc tế không còn là nhà nước sở hữu, mà thừa nhận và bảo hộ quyền sở hữu và quyền tài sản của mọi chủ thể khác trong xã hội. Đó cũng là Nhà nước không cố nắm giữ mọi dịch vụ công mà chủ yếu chuyển sang kiểm soát chất lượng, sẵn sàng chuyển giao cho tư nhân và xã hội những gì họ làm tốt hơn Nhà nước(3).

Doanh nghiệp có xu hướng tối đa hóa lợi nhuận, xu hướng độc quyền, hạn chế cạnh tranh, hy sinh các lợi ích công cộng, gây nên các ngoại ứng tiêu cực (ô nhiễm môi trường, phân hóa giàu nghèo, gian lận thương mại…). Để tối đa hóa lợi nhuận, tiếp cận nguồn lực thuận lợi, doanh nghiệp và một bộ phận quan chức nhà nước có xu hướng bắt tay hình thành “nhóm trục lợi” hướng lái chính sách, vừa làm méo mó quy luật thị trường, vừa làm tha hóa Nhà nước, đe dọa đến lợi ích các nhóm bất lợi thế và yếu thế. Vì vậy, phải cần đến vai trò không thể thiếu của Nhà nước để tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi chủ thể sản xuất, kinh doanh, chống độc quyền, hạn chế ngoại ứng tiêu cực, phân xử công bằng các tranh chấp; và cũng cần đến các tổ chức xã hội để cân bằng tiếng nói khi tham gia hoạch định chính sách giữa nhóm sản xuất và nhóm tiêu dùng, giữa ngành hàng này với ngành hàng khác…, góp phần kiểm soát quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp, phòng ngừa “nhóm trục lợi” chính sách; tổ chức cung ứng dịch vụ xã hội phi lợi nhuận để khắc phục khuyết tật của thị trường vốn có thiên hướng chỉ quan tâm tới tối đa hóa lợi nhuận.

“Xã hội” có xu hướng theo đuổi các lợi ích cục bộ của giai tầng, cộng đồng, nhóm xã hội… mà giữa chúng nhiều khi xung đột nhau và cũng xung đột với lợi ích chung của toàn xã hội. Do đó, nếu thiếu bàn tay của Nhà nước thì sẽ gây nên tình trạng vô chính phủ, không giải quyết được lợi ích nhóm cục bộ và lợi ích công cộng; tương tự, nếu thiếu vận dụng nguyên tắc thị trường vào hoạt động quản trị tổ chức xã hội thì sẽ đẩy các tổ chức rơi vào trạng thái hành chính hóa, thiếu năng động, thiếu nguồn lực tài chính phục vụ cho mở mang phúc lợi. Có thể nhận thấy, “xã hội” theo đuổi giá trị xã hội, lấy giá trị văn hóa, đạo đức, nhân văn làm động lực phát triển, có ý nghĩa cân bằng với Nhà nước vốn dựa vào sức mạnh của quyền lực chính trị, cân bằng với doanh nghiệp vốn dựa vào sức mạnh của đồng tiền. Ở đây, “xã hội” dựa vào nhiều trụ cột phát triển nên có thể bảo đảm sự hài hòa, cân bằng và vấn đề đặt ra là phải có và thực hiện được sự kết hợp hợp lý giữa sử dụng quyền lực chính trị với quyền lực kinh tế và quyền lực văn hóa, đạo đức (giá trị xã hội). Vì vậy, cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của “xã hội” nhằm bổ sung cho giới hạn của Nhà nước và hạn chế, “khuyết tật” của thị trường, như hình thành các cơ chế tham gia giám sát, phản biện xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tiếng nói của các giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội được chuyển tải một cách cân bằng đến các cơ quan hoạch định chính sách, tránh để một “nhóm lợi ích” chi phối thông tin “đầu vào”, gây nên tình trạng bất cân xứng thông tin; tham gia điều tiết quan hệ cung – cầu trên thị trường thông qua các hiệp hội, liên hiệp hội ngành hàng(4).

Trong thực tế gần 35 năm đổi mới vừa qua đã xuất hiện sự điều chỉnh, hoán đổi, chuyển giao trách nhiệm giữa Nhà nước, thị trường và xã hội đối với nhiều nội dung thuộc lĩnh vực quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam. Chẳng hạn như: Khác với dịch vụ xã hội trước đổi mới do Nhà nước độc quyền cung ứng thì trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, dịch vụ xã hội do nhiều chủ thể đa dạng cung ứng, gồm Nhà nước, tư nhân, tập thể, cộng đồng. Vì thế, có loại dịch vụ xã hội thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước lập hệ thống tổ chức cung ứng, thường gọi là các đơn vị sự nghiệp công lập; có loại dịch vụ xã hội thuộc sở hữu tư nhân, do tư nhân cung ứng, hoạt động theo nguyên tắc của thị trường, tối đa hóa lợi nhuận; có loại dịch vụ xã hội thuộc sở hữu tư nhân hoặc sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng, hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận. Những dịch vụ xã hội hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận thường có nguồn gốc tài sản dịch chuyển từ sở hữu tư nhân thành sở hữu xã hội, sở hữu cộng đồng, với cơ chế tài chính đặc thù, chất lượng của dịch vụ không hoàn toàn đo lường được bằng giá cả theo trục xoay của giá thị trường, mà chúng bị điều chỉnh rất nhiều bởi giá trị đạo đức, nhân văn như trong giáo dục, y tế, trợ giúp xã hội…

Vì vậy, trong thời gian tới, Đảng cần tập trung xác định, nhận thức lại rõ ràng và đầy đủ hơn chức năng của Nhà nước để xây dựng nhà nước quản trị, nhà nước phục vụ nhân dân; xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ, góp phần củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và giải quyết tốt các vấn đề xã hội; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nhằm bổ sung cho giới hạn của Nhà nước và hạn chế “khuyết tật” của thị trường; dựa trên các giá trị công lợi, nhân văn, công bằng, phúc lợi cho người dân…, bởi đó chính là những giá trị chung và là cơ sở cho hợp tác, đối tác giữa Nhà nước, thị trường và xã hội ở nước ta.

Về phương diện thực tiễn, nghiên cứu, nhận diện mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội ở Việt Nam hiện nay phải xuất phát từ thực tiễn phát triển của Việt Nam, nhằm khắc phục tình trạng tách biệt giữa các chủ thể hiện nay, bảo đảm kết nối ba chủ thể này thành một phức thể trong quản lý phát triển xã hội, tránh chồng chéo, phân biệt đối xử; góp phần nâng cao hiệu quả phát triển xã hội nhanh và bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới./.

GS, TS. LÊ NGỌC HÙNG – PGS, TS. NGUYỄN CHÍ HIẾU

Nguồn Tạp chí Cộng sản

* Bài viết là sản phẩm của đề tài cấp quốc gia: “Nghiên cứu mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam”, Mã số KX.01.50/16-20, thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ trọng điểm cấp quốc gia KX.01/16-20 (1) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr. 28 (2) Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại đại hội đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương), Hà Nội, tháng 4-2020, tr. 22 (3) Xem: Nguyễn Chí Hiếu, “Định dạng cơ cấu và nhận thức rõ hơn chức năng, mối  quan hệ giữa Nhà nước với thị trường và các tổ chức xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số tháng 8 – 2020 (4) Xem: Đoàn Minh Huấn, “Phát huy vai trò của xã hội góp phần bổ sung giới hạn của Nhà nước và hạn chế khuyết tật của thị trường”, Tạp chí Cộng sản, số 11, 2019

Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Giải Quyết Hài Hòa Mối Quan Hệ Giữa Lợi Ích Cách Mạng Và Lợi Ích Cá Nhân

Trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân. Điều này, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với cách mạng nước ta, góp phần đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Lợi ích theo Từ điển Tiếng Việt, là “điều có lợi, có ích cho một đối tượng nào đó, trong mối quan hệ với đối tượng ấy”. Theo đạo đức học Mác – Lênin, “lợi ích là những điều kiện vật chất, tinh thần có tính khách quan đối với sự tồn tại và phát triển bình thường của các cá nhân, các cộng đồng người, các giai cấp và của xã hội nói chung”.

Với ý nghĩa đó, lợi ích cá nhân được hiểu là những điều có lợi, có ích cho cá nhân nói chung.

Lợi ích cách mạng được hiểu là lợi ích chung của toàn dân tộc qua từng thời kỳ lịch sử. Trong đó, xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam là xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công, giành độc lập dân tộc và xây dựng thành công xã hội mới đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Trong bối cảnh đất nước bị xâm lược thì mục tiêu hàng đầu mà Hồ Chí Minh quan tâm đó là đánh đuổi chủ nghĩa thực dân, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Độc lập cho dân tộc là điều kiện để nhân dân được tự do, đồng bào được hạnh phúc. Nếu không có độc lập dân tộc thì không thể nói tới phát triển đất nước. Khi đất nước bị mất chủ quyền thì tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xã hội đều phải chịu chung số phận của người nô lệ, đều phải chịu chung nỗi nhục mất nước. Người nhận thức sâu sắc rằng, độc lập dân tộc là cái trước hết, trên hết nhưng sau khi giành được độc lập rồi, thì đất nước sẽ phát triển theo con đường nào? Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc, phù hợp với xu thế thời đại và phù hợp với nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta.

Mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân luôn tiềm tàng một mâu thuẫn, quan hệ giữa chúng là quan hệ giữa cái chung và cái riêng nên mâu thuẫn này là mâu thuẫn giữa cái chung và cái riêng, chứ không phải là mâu thuẫn đối kháng. Do đó, xã hội và cá nhân cần có sự điều chỉnh mối quan hệ giữa hai lợi ích trên.

Với tư duy chính trị sắc bén, Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân. Nó góp phần khơi dậy, phát huy sức mạnh của cá nhân và cộng đồng trong sự nghiệp cách mạng chung.

Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Hồ Chí Minh là phải đặt lợi ích của cách mạng, lợi ích của Tổ quốc lên trên lợi ích cá nhân.

Điều này, được Người giải thích rất rõ trong ” Bài nói tại buổi bế mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính các cơ quan trung ương” như sau: “Mọi người nhận rõ lợi ích chung của dân tộc phát triển và củng cố thì lợi ích riêng của cá nhân mới có thể phát triển và củng cố. Cho nên lợi ích cá nhân ắt phải phục tùng lợi ích của dân tộc, chứ quyết không thể đặt lợi ích cá nhân trên lợi ích dân tộc. Đó là một tiến bộ”.

Vì “tiền đồ của mỗi người nằm trong tiền đồ chung của dân tộc”. Sau này, trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, Người khẳng định: “Trong chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, thì mỗi người là một bộ phận của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần công lao trong xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thoả mãn.

Lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của tập thể. Nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của tập thể”.

Trong bối cảnh đất nước mất chủ quyền, thực hiện giải phóng dân tộc trước hết đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp, của cá nhân phải phục tùng lợi ích của dân tộc. Tại Hội nghị lần thứ 8, của Ban chấp hành Trung ương Đảng (5/1941), Người khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại lại được”.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, giai cấp công nhân Việt Nam được tự do, nông dân có ruộng đất để cày cấy, trí thức được tự do sáng tạo… các giai cấp, tầng lớp trong xã hội từ thân phận của người nô lệ trở thành người chủ nước nhà.

Trong quá trình tuyên truyền, giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác nêu gương, vì đối với người phương Đông “Một tấm gương sống còn giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Người nêu những tấm gương sáng của các vị anh hùng dân tộc và những cử chỉ tốt đẹp của Việt Minh đã luôn đặt lợi ích cách mạng, lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân để mọi người noi theo. Trong “Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng”, Người khẳng định: “Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ, và trăm nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết. …

Khi tổ chức Chính phủ lâm thời, có những đồng chí trong Uỷ ban Trung ương do Quốc dân đại hội bầu ra, đáng lẽ tham dự Chính phủ, song các đồng chí ấy đã tự động xin lui, để nhường chỗ cho những nhân sĩ yêu nước nhưng còn ở ngoài Việt Minh. Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính mà chúng ta phải học”.

Bên cạnh đó, Người còn dùng hình ảnh sinh động của “tàu điện” để phân tích một cách dễ hiểu về biểu hiện của việc chỉ chăm lo cho lợi ích cá nhân mình, tách cá nhân ra khỏi cộng đồng. Trong bài ” Nói chuyện tại hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục”, Người nhấn mạnh: “…Trong khi kinh tế tài chính của ta có khó khăn lại muốn một mình ăn no mặc ấm. Ví dụ, ngoài đường kia có tàu điện chạy qua. Trong tàu điện có gái, trai, già, trẻ. Tàu điện đi đến đâu thì mọi người đi đến đó. Nhưng có người nói tàu điện chạy chậm quá muốn riêng mình đi cho mau, muốn nhảy ra khỏi tàu điện để chạy lên trước. Kết quả sẽ thế nào? Có thể là què chân, gãy tay. Vì vậy, không thể tách rời tiền đồ của cá nhân mình với tiền đồ của toàn dân, toàn Đảng”.

Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Nhưng quần chúng phải được giác ngộ, phải được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn thì mới trở thành một lực lượng to lớn. Để làm được những việc có tầm rộng lớn ấy, Người thấy rõ phải đưa chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối cách mạng vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, từ đó thành lập Đảng Cộng sản để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Trong nhiều bài nói, bài viết của mình, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vấn đề phải đặt lợi ích cách mạng, lợi ích của Đảng lên trên hết. Bởi vì, Đảng chính là người lãnh đạo, dẫn dắt toàn dân thực hiện lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, của nhân dân, “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích khác… Vì vậy, mỗi người trong Đảng phải hiểu rằng: lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài…”. Theo Người, đó là mục đích, lý tưởng cao cả của Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ” trung thành của nhân dân. Do đó, người dân Việt Nam luôn coi Đảng ta là của chính mình.

Sau này, trong bài “Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục”, Người đã khẳng định mục đích đấu tranh của Đảng ta: “là muốn cho tất cả mọi người được ăn no, mặc ấm, được tự do”. Mục đích của mỗi đảng viên đấu tranh cũng để mọi người được ăn no mặc ấm, được tự do.

Đảng Cộng sản là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân, đại diện cho ý chí, lợi ích của giai cấp công nhân, nhưng lợi ích của giai cấp công nhân về cơ bản là thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động. Người viết: “Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không phải mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào… Giai cấp công nhân chẳng những đấu tranh để tự giải phóng, mà còn để giải phóng cả loài người khỏi áp bức, bóc lột. Cho nên lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của nhân dân là nhất trí. Đảng viên là người thay mặt Đảng đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, lợi ích của người đảng viên phải ở trong chứ không thể ở ngoài lợi ích của Đảng, của giai cấp”. Có thể nói, những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân gắn liền với sự giải phóng nó về mặt kinh tế, chính trị và tinh thần, gắn liền với sự phát triển toàn diện và tự do của loài người.

Theo Hồ Chí Minh, “đặt lợi ích của Đảng, tức là đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước hết”, biết đem lợi ích của cá nhân phục tùng lợi ích chung của cách mạng là một trong những tiêu chuẩn của người đảng viên Đảng Lao động Việt Nam.

Một mặt, Hồ Chí Minh nêu lên những biểu hiện về sự thống nhất giữa lợi ích chính đáng của cá nhân với lợi ích của Đảng, mặt khác, Người cũng phê phán những biểu hiện cần tránh, đó là: “Nhiều khi lợi ích của cá nhân hợp với lợi ích của Đảng. Thí dụ đảng viên và cán bộ cẩn thận giữ gìn sức khoẻ của mình để làm việc. Ham học tập để nâng cao trình độ của mình. Làm đúng cần, kiệm, liêm, chính để cho dân tin, dân phục, dân yêu. Những lợi ích cá nhân đó rất chính đáng. Đảng mong cho đảng viên và cán bộ như thế. Song ngoài ra, như ham muốn địa vị, tìm cách phát tài, ra mặt anh hùng, tự cao tự đại, v.v.. Đó đều là trái với lợi ích của Đảng”.

Đồng thời, Người cũng lý giải tại sao mọi người lại lo nghĩ cho cá nhân trong bài ” Nói chuyện tại hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục” như sau: “Có khi các cô, các chú lo nghĩ cho cá nhân, cái đó cũng dễ hiểu. Vì người ta không phải là thần thánh gì. Vả lại, khuyết điểm trong xã hội ảnh hưởng đến các cô, các chú”.

Có thể nói, dân tộc Việt Nam có truyền thống đề cao cộng đồng mà chưa có truyền thống và ý thức tôn trọng cá tính, nhân cách độc lập của mỗi người một cách đúng mức. Đây là mặt yếu, mà chúng ta đang dần dần khắc phục, để tạo ra một cuộc sống hài hòa giữa cộng đồng và cá nhân. Một mặt, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải đặt lợi ích cách mạng, lợi ích của Tổ quốc lên trên lợi ích cá nhân; mặt khác, Người cũng rất tôn trọng, quan tâm, chăm lo đến lợi ích cá nhân chính đáng.

Người viết: “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình.Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu. Nhưng lại phải thấy rằng chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình. Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”. Đây là sự tiếp tục quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa tập thể. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định rằng: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và sau đó là chủ nghĩa cộng sản mới có điều kiện phát huy toàn diện năng lực bản chất của con người, tự do, nhu cầu, khát vọng, năng khiếu của con người, C.Mác viết rằng, trong chủ nghĩa xã hội “sẽ xuất hiện một liên hợp trong đó có sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Bởi, cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng triệt để, sự thay đổi các điều kiện kinh tế – xã hội một cách căn bản và tiến bộ đã dẫn đến sự thay đổi các mặt đời sống xã hội, đem giá trị của con người trả lại cho con người, coi con người là mục đích cao nhất.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở, chống chủ nghĩa cá nhân nhưng “không giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Điều này tưởng chừng đơn giản nhưng để nhận thức đầy đủ và thực hiện đúng lại không đơn giản chút nào. Bởi lẽ, nếu quá nhấn mạnh lợi ích cá nhân, con người sẽ dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân và ngược lại, chống chủ nghĩa cá nhân không thận trọng sẽ “giày xéo” lên lợi ích chính đáng của cá nhân. Cả hai khuynh hướng trên đều dẫn tới những kết quả là cản trở sự nghiệp giải phóng cá nhân, khó thực hiện mục tiêu đem lại tự do, hạnh phúc cho mỗi người trong chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Ở đây, biểu hiện quan hệ giữa cá nhân và xã hội, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội thống nhất với nhau. Ở đó, con người không chỉ nghĩ và hành động vì mình mà vì người khác, có tinh thần trách nhiệm và thái độ tôn trọng, chăm sóc lẫn nhau.

Do đó, chúng ta phải chăm lo đến lợi ích vật chất, tác động vào các động lực chính trị – tinh thần như: phát huy quyền làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã hội, bồi dưỡng các nhân tố đạo đức, văn hóa, pháp luật… để phát huy sức mạnh cá nhân.

Để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân, theo Hồ Chí Minh, trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là “chủ nghĩa cá nhân”, phải biết đặt lợi ích của dân tộc, của giai cấp lên trên lợi ích cá nhân, phải biết quên mình cho nghĩa lớn. Vì vậy phải chống chủ nghĩa cá nhân.

“Chủ nghĩa cá nhân” được hiểu là “cái gì cũng chỉ biết có mình và gia đình mình chứ ít khi nghĩ đến cái gia đình lớn là dân tộc, cái mình lớn hơn là phải hòa mình vào với dân tộc”.

Người ví chủ nghĩa cá nhân “như là một thứ vi trùng rất độc”, nó “đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí… Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”. Sau này, Người còn chỉ ra những tác hại của chủ nghĩa cá nhân khi đảng viên mắc phải, như: “Vì chưa rửa gột sạch chủ nghĩa cá nhân, cho nên có đảng viên còn “kể công” với Đảng. Có ít nhiều thành tích, thì họ muốn Đảng “cảm ơn” họ. Họ đòi ưu đãi, họ đòi danh dự và địa vị. Họ đòi hưởng thụ. Nếu không thoả mãn yêu cầu của họ thì họ oán trách Đảng, cho rằng họ “không có tiền đồ”, họ “bị hy sinh”. Rồi dần dần họ xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng”.

Trong khi miền Bắc nước ta đang tiến lên chủ nghĩa xã hội – Đó là công trình tập thể của hàng chục triệu người lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, thì Người nhắc nhở: “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.

Vậy, “Chủ nghĩa xã hội là cái gì? Là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do. Nhưng nếu muốn tách riêng một mình mà ngồi ăn no, mặc ấm, người khác mặc kệ, thế là không tốt. Mình muốn ăn no mặc ấm, cũng cần làm sao cho tất cả mọi người được ăn no mặc ấm, như thế mới đúng. Muốn như vậy, phải ra sức công tác, ra sức lao động sản xuất”.

Đồng thời, với việc chống chủ nghĩa cá nhân, Người đặc biệt coi trọng nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải “hết lòng tôn trọng tập thể, phát huy dân chủ nội bộ”, “phải đi sâu, đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ…”

Có thể nói, tư tưởng và tấm gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá mà Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta. Đây là một trong những nhân tố góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cho đến nay, những quan điểm của Người về giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân vẫn còn giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đây cũng là nội dung, phương hướng rèn luyện đạo đức của mỗi người theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nó là kim chỉ nam của Đảng ta trong việc xây dựng đạo đức mới trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.

Những quan điểm trên của Người vẫn tiếp tục chỉ đạo hoạt động thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Đặc biệt là trong bối cảnh, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên sa sút về phẩm chất đạo đức, phai nhạt lý tưởng cách mạng, quá coi trọng đến lợi ích cá nhân đã và đang làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ thì việc nắm vững những quan điểm của Người về giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân có giá trị thời sự sâu sắc.

Hiện nay, vận dụng quan điểm của Người để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng với lợi ích cá nhân, đòi hỏi mọi suy nghĩ và hành động của cá nhân phải trên cơ sở lợi ích chung của tập thể, của Đảng, của đất nước, trong đó có quyền lợi của chính bản thân mình, đó là phấn đấu vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong từng nhiệm vụ cụ thể, phải đặt lợi ích chung của Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân mình. Đồng thời, xã hội phải có những cơ chế đảm bảo lợi ích chính đáng của cá nhân.

Trong cơ chế cũ, có lúc chúng ta đã tuyệt đối hóa tập thể, triệt tiêu cá nhân. Lợi ích xã hội nhiều khi được quan niệm rất trừu tượng, mơ hồ, biến lợi ích chung thành lợi ích của thứ “cộng đồng hư ảo” như Mác đã nói… Ngày nay, trong quá trình chuyển đổi cơ chế lại có một sự điều chỉnh, đánh giá lại mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể và xã hội. Việc phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ; kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội; đáp ứng nhu cầu trước mắt với lợi ích lâu dài giữa cá nhân và cộng đồng là điều kiện đảm bảo tốt nhất vấn đề lợi ích, là cơ sở để đảm bảo sự gắn bó giữa Đảng với dân ở nước ta hiện nay.

Như vậy, với nhãn quan chính trị sắc bén, Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân. Sự thống nhất, hài hòa các lợi ích này là động lực cho cá nhân hoạt động, là cơ sở cho sự gắn bó giữa cá nhân với tập thể và xã hội; đồng thời, phát huy được sức mạnh của cộng đồng cũng như sức mạnh cá nhân trong sự nghiệp cách mạng chung, góp phần đưa cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn.

Tác giả: Nông Thị Xuân, Khoa KHCB

Đăng tin: Hồng Nhung, Khoa KHCB

Bạn đang đọc nội dung bài viết Giải Quyết Hài Hòa Quan Hệ Giữa Lợi Ích Cá Nhân Và Lợi Ích Xã Hội Trong Điều Kiện Kinh Tế Thị Trường Ở Việt Nam Hiện Nay trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!