Đề Xuất 6/2023 # Điều Trị Chó Mèo Bị Gãy Chân, Gãy Xương, Rạn Xương # Top 15 Like | Comforttinhdauthom.com

Đề Xuất 6/2023 # Điều Trị Chó Mèo Bị Gãy Chân, Gãy Xương, Rạn Xương # Top 15 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Điều Trị Chó Mèo Bị Gãy Chân, Gãy Xương, Rạn Xương mới nhất trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Chó mèo bị gãy chân, gãy xương, rạn xương là việc thường hay xảy ra trong cuộc sống hằng ngày con người cũng như con vật cụ thể ở đây là chó mèo lợn bò cũng không thể tránh khỏi bị tai nạn có thể là khách quan cũng có thể do chủ quan , nên việc phán đoán đúng tình trạng là việc cần thiết và nên làm . Vậy khi chó mèo bị gẫy chân , gãy xương, rạn xương nên làm thế nào thì mời các bạn cũng theo dõi và xem bài viết sau của chúng tôi để có cái nhìn tổng quát và đúng nhất về tình trạng này. Ngoài ra trung tâm cũng cung cấp dịch vụ Khám Chữa Bệnh Thú Cưng Tại Nhà để tránh các bạn lúng túng và cần bác sĩ thú y điều trị ngay tại nhà. Hãy liên hệ ngay.

HOTLINE: 0848.381.986

Cấu tạo bộ xương của chó mèo

Cấu tạo xương chó

Cấu tạo xương ở chó, bộ xương là đòn bẩy của chuyển động, là chỗ tựa của những phần mềm trong cơthể, là cơ quan bảo vệ, là chỗ để phát triển những cơ quan tạo máu (tủy xươngBộ xương chó cấu trúc từ 247 xương và 262 khớp. Cột sống bao gồm 7 đs cổ, 13 đs ngực, 7 đốt sống thắt lưng, 3 đốt sống khum, 20 – 23 đs đuôi (một vài loài chỉ có 5 – 6 đốt sống đuôi. Chó có 13 đôi xương sườn) Chân trước bắt đầu từ xương bả vai, x. cánh tay, x. cẳng tay (x. trụ và x. quay), x.cổ tay (có 7 x. nhỏ), x. bàn tay (có 5 xương), x. ngón tay (có 4 ngón 3 đốt, 1 ngón 2 đốt). Xương chân trước liên kết với các đốt sống không phải là khớp mà bằng những cơ chắc chắn. Phía trên x. bả vai là vây. Chiều cao vây là chiều cao của chó và là một chỉ tiêu xác định giá trị giống của nó. Độ lệch với tiêu chuẩn cao hơn giới hạn trên và thấp hơn giới hạn dưới được coi là khuyết tật. đỏ), tham gia vào những quá trình trao đổi chất và sinh học trong cơ thể, là khodự trữ của những chất vô cơ cũng như hữu cơ.

A – Sơ đồ bộ xương chó: 1. Sọ; 2. 3. 4. 5. Đốt xương sống cổ, lưng, vùng thận, vùng đuôi; 6. U; 7. Xương sườn; 8. Chậu; 9. Xương vai; 10, 11, 12. Xương chân; 13. Xương mắt cá; 14, 15. Xương ngón và bàn chân; 16, 17, 18, 19, 20. Các xương tương tự của chi sau. B – 21. Mắt; 22. Mũi; C – Chân nhìn từ dưới: 23. Đệm cổ chân; 24. Sụn; 25. Đệm ở bàn chân; 26. Móng; 27. Đệm ở ngón chân

Xương chân sau bắt đầu từ xương chậu, x. đùi, x. cẳng chân, x. cổ chân (có 7xương nhỏ), x. bàn chân có 4 hoặc 5 xương, x. ngón chân có 4, đôi khi mặt trongtừ nửa trên x. bàn có 1 ngón bất toàn (huyền đề) – không phải ở cá thể nào cũngliên kết với khối xương bàn chân.

Ở nước ngoài, người ta coi nó như một hiện tượng không mong muốn, có thể cắt bỏ nó khi chó còn non; ở Việt Nam, người ta quan niệm như một cơ hội may mắn: “Dù ai buôn bán trăm nghề, không bằng nuôi chó huyền đề 4 chân”. Xương chân sau có một khớp nối với xương chậu (ổ cối), được cố định bằng các cơ của nhóm cơ chậu đùi.

Cấu tạo xương mèo

Bộ xương của mèo gồm 7 đốt sống cổ, 13 đốt sống ngực, 7 đốt sống lưng, 3 đốt sống hông và 14 – 28 đốt sống đuôi. Nhờ cấu tạo bộ xương nhỏ và có nhiều đốt sống nên mèo di chuyển và cuộn tròn lại một cách dễ dàng. Cấu tạo xương đuôi dài giúp cho mèo giữ thăng bằng khi di chuyển nhanh hoặc lúc rơi.

Mèo là loài vật khó bị tổn thương khi rơi từ trên cao hay bị ném ra xa. Bởi đôi chân mèo giống như một bộ lò xo giảm xóc và cơ thể mèo trong trạng thái rơi tự do gần như lấy lại thăng băng ngay lập tức nhờ có phản xạ thăng bằng giúp nó xoay người sang tư thế thích hợp để tiếp đất.

Người ta nói “lười như mèo” cũng đúng vì thời gian ngủ trung bình của chúng là 13-14 giờ/ ngày. Tuy thích ngủ ngày nhưng mèo là những kẻ siêng “cày” đêm. Thực ra thì cấu tạo thị giác của mèo thích hợp với nhìn trong bóng đêm hơn là nhìn dưới ánh sáng ban ngày. Các nghiên cứu y học cho thấy để sáng mắt “đi đêm”, mèo cần một chất giống như chất “ngưu hoàng” (sỏi mật của trâu), rủi ro thay cho giòng họ nhà Tý (chuột) lại là những kẻ mang trong mình “báu vật” này!

Tới mùa sinh sản, mèo cái thường lân la tìm mèo đực sau khi đã tự chải chuốt bộ lông óng mượt và gợi cảm. Mỗi lứa mèo đẻ từ 2 – 4 con. Mèo con 1 tháng tuổi đã được mèo mẹ dạy cách săn mồi qua các động tác như chạy, nhảy, leo, trèo, rình, vồ… Đến 4 tháng tuổi mèo con đã có thể bắt được chuột.

Dấu hiệu của chó mèo bị gãy chân, gãy xương, rạn xương

+ Không di chuyển được hoặc khó khăn trong việc đi lại+ Chân bị sưng+ chó mèo có các hoạt động khác thường+ Chân bị biến dạng (Chân bị ngắn lại, dài ra hoặc cong)

Sau khi chuẩn đoán được chú chó của bạn đã bị gãy xương chân bạn có thể đưa đến các trạm y tế thú ý để có thể chụp và băng bó để chú chó mèo nhanh liền xương.

Nếu bạn chuẩn đoán được chú chó của mình chỉ bị bong gân và vết bầm thì bạn có thể tự sơ cứu tại nhà bằng phương pháp chườm đá vào chỗ bị bong gân của chú chó

Chú chó bị gãy xương thì việc đâu tiên trước khi sơ cứu thì bạn đeo rọ mõm chó chú cho.Tiếp theo bạn tìm vị trí chú chó bị gãy ở đâu rồi lấy 2 mảnh gỗ nẹp lại và buộc bằng vải sau đó bạn đưa chú chó đến thú ý.Nếu bạn không tự băng bó cho chú chó được thì có thể đưa chú đến trạm y tế để bác sĩ chữa trị.

Sau khi đã thực hiện những bước sơ cứu trên thì bạn cho chú chó nằm yên một chỗ không cho hoạt động nhiều đảm bảo chỗ ở của chú luôn được sạch sẽ.

Bạn có thể bổ sung thêm các loại thực phẩm Canxi,Vitamin A,D cho chó có thể kèm theo phương pháp tắm nắng cho chó vào buổi sáng sơm.Nếu gia đình có điểu kiện có thể đưa chú đi kiểm tra thường xuyên để xem xét tình trạng phục hồi ra sao.Thông thường với các chú chó thì sau 3-4 tuần chó sẽ hết sưng và sau 12 tuần chú chó sẽ liền xương.

Điều trị chó mèo bị gãy xương , gãy chân , rạn xương

Chụp x-quang cho chó mèo bị gãy xương

Chụp X-quang chó mèo là phương pháp được sử dụng khi thú cưng bị tổn thương phần xương khớp mà nội soi hay siêu âm không thể làm gì được. Phổ biến nhất hiện nay là chụp x-quang chẩn đoán bệnh loạn sản xương hông ở chó mèo.

Xác định các dấu hiệu, nguyên nhân gây ra loạn sản xương hông, như thoái hóa tủy sống, viêm khuỷu chi sau hay các chứng bệnh thuộc về xương khớp khác.

Chụp X-quang mèo, chó sẽ cho hình ảnh về tim, phổi, mạch máu, xương sườn, xương của cột sống. Từ đó, giúp bạn biết được thú cưng của mình có bị suy tim, phổi sụp, viêm phổi, xương sườn có bị gãy không, có không khí tích tụ trong không gian xung quanh phổi (tràn khí màng phổi) không?

Chụp x-quang cho thấy dịch trong phổi, trong không gian xung quanh phổi, mở rộng tim, viêm phổi, ung thư, bệnh khí thũng…

Kỹ thuật chụp x-quang cho hình ảnh sắc nét hiển thị trên máy vi tính, hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng chính xác hiệu quả. Kết quả cho phép lưu trữ lâu dài, tiết kiệm thời gian, thuận tiện…

Sau khi có kết quả x-quang các chấn thương của chó mèo thì các bác sĩ thú y sẽ có thể đưa ra kết luận chính xác về việc điều trị xương khớp cho chó mèo cụ thể là nẹp xương hay đóng đinh hay bó bột cho chó mèo

Bó bột xương cho chó mèo bị gãy xương

Trong các trường hợp chó mèo bị gãy xương chân do tai nạn, nếu trong trường hợp nhẹ xương chỉ bị gãy mà vẫn còn dính với nhau, không lìa hẳn thì bác sĩ thú y sẽ dùng phương pháp bó xương chó mèo để cố định xương.

Đây là một dịch vụ can thiệp đến các vấn đề về xương của thú cưng do bị tai nạn té ngã. Hiện tại dịch vụ phẫu thuật xương chó mèo đã có những bước phát triển và áp dụng công nghệ rất hiện đại không thua gì trên con người.

Mổ xương chó mèo

Phẫu thuật mổ xương chó mèo (hay còn gọi là phẫu thuật mổ xuyên đinh) áp dụng khi chó mèo bị tai nạn gãy xương chân. Nếu chỉ bị gãy và xương còn dính với nhau thì chỉ đơn giản là bó bột nẹp cố định xương, Nhưng nếu bị nặng xương gãy lìa hẳn, thì lúc này bác sĩ thú y phải dùng cây đinh dài xuyên qua giữa 2 lớp xương bị gãy để giữ nối xương lại.

Ghép xương chó mèo

Tương tự như phẫu thuật mổ xuyên đinh. Dịch vụ ghép xương chó mèo được áp dụng khi xương bị gãy lìa hoặc bị mất một phần xương nên không thể bó bột nên chó mèo cần đến dụng cụ nối ghép xương để hỗ trợ cố định xương bị gãy.

Đóng đinh nẹp xương cho chó mèo

Với các ca bị gãy xương nặng thì việc đóng định cố định lại xương đã không còn xa lạ nó sẽ giúp cố định lại xương và giúp cho chó mèo nhà bạn nhanh lành vết gãy nhất có thể.

Chăm sóc chó mèo khi bị gãy chân, gãy xương, rạn xương

Bạn hãy để chó nằm yên 1 chỗ, tránh không cho chúng hoạt động nhiều

Đảm bảo chỗ nằm luôn được sạch sẽ, thoáng mát

Tăng cường bổ sung các dưỡng chất cần thiết như: Canxi, vitamin A,D… Hãy cho chú chó của bạn đi tắm nắng sớm

Cho chúng đi kiểm tra thường xuyên nếu điều kiện cho phép

Thông thường, chỉ từ 3-4 tuần là xương có thể cử động nhẹ. 12-16 tuần xương sẽ liền thành 1 khối, chó sẽ cơ bản hồi phục hoàn toàn. Bạn cần lưu ý là chó con sẽ liền xương nhanh hơn chó to, nên hãy chú ý đến chúng nhiều hơn.

Hạn chế cho chó vui chơi ngoài đường vì rất dễ xảy ra tai nạn

Khi cho chó đi vệ sinh hoặc đi dạo, hãy luôn đeo dây xích cho chúng. Đặc biệt là với những chú chó hiếu động

Bổ sung các dưỡng chất cần thiết để ngăn ngừa loãng xương

Để phục vụ hơn 100.000 khách hàng mỗi năm, ngay từ những ngày đầu làm dịch vụ Khám Chữa Bệnh Thú Cưng Tại Nhà đã đầu tư những trang bị hiện đại và một đội ngũ bác sĩ thú y giàu kinh nghiệm, chuyên nghiệp. Khách hàng sẽ được cập nhật mọi thông tin, được sử dụng dịch vụ thú y chất lượng cao với chi phí hợp lý, được những bác sĩ giỏi khám chữa cho thú cưng của mình.

Với nhiều năm kinh nghiệm trong việc khám và chữa bệnh cho thú cưng, chúng tôi đủ tự tin lấy được 100% sự hài lòng của quý khách!

Cách Xử Lý Khi Mèo Bị Gãy Chân, Gãy Xương, Rạn Xương

Bộ xương của mèo gồm 7 đốt sống cổ, 13 đốt sống ngực, 7 đốt sống lưng, 3 đốt sống hông và 14 – 28 đốt sống đuôi. Nhờ cấu tạo bộ xương nhỏ và có nhiều đốt sống nên mèo di chuyển và cuộn tròn lại một cách dễ dàng. Cấu tạo xương đuôi dài giúp cho mèo giữ thăng bằng khi di chuyển nhanh hoặc lúc rơi.

Mèo là loài vật khó bị tổn thương khi rơi từ trên cao hay bị ném ra xa. Bởi đôi chân mèo giống như một bộ lò xo giảm sock và cơ thể mèo trong trạng thái rơi tự do gần như lấy lại thăng bằng ngay lập tức nhờ có phản xạ thăng bằng giúp nó xoay người sang tư thế thích hợp để tiếp đất.

Người ta nói “Lười như mèo” cũng đúng vì thời gian ngủ trung bình của chúng là 13 – 14 giờ/ ngày. Tuy thích ngủ ngày nhưng mèo là những kẻ siêng cày đêm. Thực ra, thì cấu tạo thị giác của mèo thích hợp với nhìn trong bóng đêm hơn là nhìn dưới ánh sáng ban ngày. Các nghiên cứu y học cho thấy để sáng mắt “đi đêm”, mèo cần một chất giống như chất “ngưu hoàng” (sỏi mật của trâu), rủi ro thay cho dòng họ nhà Tý (chuột) lại là những kẻ mang trong mình “báu vật” này!

Tới mùa sinh sản, mèo cái thường lân la tìm mèo đực sau khi đã tự chải chuốt bộ lông óng mượt và gợi cảm. Mỗi lứa mèo đẻ từ 2 – 4 con. Mèo con 1 tháng tuổi đã được mèo mẹ dạy cách săn mồi qua các động tác như: Chạy, nhảy, leo, trèo, rình, vồ… Đến 4 tháng tuổi mèo con đã có thể bắt được chuột.

2. Dấu hiệu nhận biết mèo bị gãy chân, gãy xương, rạn xương

Không di chuyển được hoặc khó khăn trong việc đi lại

Mèo có các hoạt động khác thường

Chân bị sưng

Chân bị biến dạng (Chân bị ngắn lại, dài ra hoặc cong)

a. Sơ cứu khi nhận biết mèo bị gãy chân:

Sau khi chuẩn đoán được chú mèo của bạn bị gãy xương chân các bạn có thể đưa đến các trạm y tế thú y để có thể chụp X quang phim và băng bó để chú mèo nhanh liền xương.

Nếu bạn chuẩn đoán được chú mèo của mình chỉ bị bong gân và vết bầm thì bạn có thể tự sơ cứu ngay tại nhà bằng phương pháp chườm đá vào chỗ bị bong gân của mèo.

Nếu chú mèo bị gãy xương thì việc đầu tiên trước khi sơ cứu thì bạn đeo rọ mõm mèo lại. Tiếp theo, các bạn tìm vị trí chú mèo bị gãy ở đầu rồi lấy 2 mảnh gỗ nẹp lại và buộc bằng vải sau đó bạn đưa chú mèo đến bác sĩ thú y. Nếu bạn không tự băng bó cho chú mèo được thù có thể đưa đến trạm y tế gần nhất để bác sĩ xử lý kịp thời.

Sau khi đã thực hiện những bước sơ cứu trên thì bạn cho chú mèo của mình nằm yên một chỗ không cho hoạt động nhiều đảm bảo chỗ ở của chúng luôn được sạch sẽ.

Bạn có thể bổ sung thêm các loại thực phẩm Canxi, Vitamin A, D cho mèo có thể kèm theo phương pháp tắm nắng cho mèo vào buổi sáng sớm.

Chuẩn Đoán Và Điều Trị Gãy Xương Gò Má

– Mặt ngoài lồi, còn gọi là mặt gò má, có vài ba cơ bám da mặt dính vào.

– Mặt trong, còn gọi là mặt ổ mắt, là phần trước thành bên ngoài của mắt.

– Bờ trước và trên là một phần của vành ổ mắt.

– Bờ trước và dưới tiếp khớp với xương hàm trên.

-Bờ sau và trên, ở dưới và ở phía trước hố thái dương. Có hai mảnh: mảnh ngang và mảnh thẳng. Mảnh này có mỏm viền.

– Bờ sau và dưới liên tiếp với mỏm tiếp của xương thái dương.

– Góc trên là mỏm trán bướm tiếp khớp với mỏm ổ mắt ngoài của xương trán.

– Góc dưới và góc trước tiếp khớp cùng với bờ trước và dưới xương hàm trên.

– Góc sau là mỏm tiếp, tiếp khớp với mỏm tiếp xương thái dương.

trong xương, có một ống gò má hình chữ nhân với ba lỗ để cho dây thần kinh thái dương gò má đi qua. Lỗ vào ở trong ổ mắt, trên mảnh ngang của xương, cạnh bờ trước và trên. Hai lỗ ra, một ở mặt ngoài (phía má) và một ở mặt trong (phía hố thái dương).

2. Các cơ bám vào xương gò má:

Góp phần gây di lệch xương gò má khi nó bị gãy.

– Cơ nâng môi trên: nguyên uỷ từ bờ dưới ổ mắt đến bám tận vào cánh mũi, môi trên.

– Cơ cắn: Nguyên uỷ từ mỏm tiếp đến bám tận ở mặt ngoài góc hàm dưới. Cơ cắn gồm hai bó nông và sâu.

Xương gò má góp phần tạo nên sàn và thành ngoài ổ mắt, nên mọi thay đổi về vị trí và hình thể của xương gò má đều có thể ảnh hưởng đến hoạt động chức năng của mắt.

Mỏm tiếp của xương gò má có cơ cắn bám và tiếp giáp ở phía trong với cơ thái dương. Nên khi xương gò má gãy thì dễ bị di lệch thứ phát do hoạt động của cơ cắn , và khi mỏm tiếp gãy lún vào bên trong thì thường làm há miệng hạn chế.

Cơ thái dương: Nguyên uỷ từ sàn hố thái dương và mạc thái dương đi luồn ở mặt trong cung tiếp đến bám ở bờ trước mỏm quạ và bờ trước của nghành lên xương hàm dưới. Vì vậy khi cung tiếp bị gãy lún vào trong thì sẽ chèn ép nhóm cơ này làm há miệng hạ chế.

Ống dưới ổ mắt: nằm trong xương hàm trên, gần với mỏm gò má, nên khi gãy xương gò má thì nó dễ bị vỡ, gián đoạn gây chèn ép dây thần kinh hàm trên nằm ở bên trong ống. Nếu không được điều trị thì dễ để lại di chứng thần kinh sau này.

Dây thần kinh mặt: Thoát ra khỏi sọ ở lỗ trâm chũm, đi giữa hai thuỳ của tuyến mang tai sau đó toả ra các nhánh tận ở nông. Nhánh thái dương, gò má và má đi gần xương gò má gây cản trở cho phẫu thuật xương gò má.

Xoang hàm: nằm trong xương hàm trên, vì thành xoang mỏng nên nó thường bị vỡ khi có gãy xương gò má, gây chảy máu trong xoang và đôi khi thoát vị các thành phần xung quanh vào trong xoang, gây khó khăn cho công việc điều trị.

Nhãn cầu: được cấu tạo bởi 3 lớp vỏ. Xung quanh nhãn cầu có các cơ vận nhãn., trong đó có hai cơ dễ bị ảnh hưởng khi có gãy xương gò má đó là cơ thẳng dưới và cơ chéo dưới. Hai cơ này dễ bị tụt kẹt dẫn đến giới hạn vận động nhãn cầu.

4. Vai trò của cấu trúc giải phẫu chịu sang chấn:

Lực sang chấn vào vùng mặt thường là lực hướng tâm hoặc là lực tiếp tuyến. Lực này sẽ làm thủng hoặc là dập, tác dụng lên khối xương mặt có cấu trúc không đồng nhất. Tầng mặt giữa là tổ chức xương nang, thành của những nang này hoặc là mảnh hoặc là thành những lá xương (xoang trán, xoang hàm trên, mê đạo sàng, vách mũi), hoặc là những tổ chức xương dày cứng. Phần tổ chức xương dày cứng tạo nên cấu trúc giải phẫu chịu lực, những cấu trúc này thường nằm trên đường giữa, đó là: Trán, mũi, vùng răng cửa trên, và ở phía bên đó là thân xương gò má. Những cấu trúc chịu sang chấn này hoặc bị vỡ ngay lập tức dưới tác dụng của lực tác động, hoặc dung nạp và truyền lực tác động đến các điểm tiếp khớp làm gãy các điểm tiếp khớp. Nếu lực sang chấn quá lớn vượt quá khả năng chịu đựng của những cấu trúc chịu lực này thì nó sẽ làm tách rời các khối xương mặt.

Theo Sweringen khả năng chịu lực tối đa của những cấu trúc chịu sang chấn trước khi gãy như sau:

Gãy xương gò má được DUVERNEY miêu tả từ năm 1751, đây là một loại gãy xương thường gặp và thường do một chấn thương trực tiếp vào thân xương hay vào điểm tiếp khớp của nó với các xương khác. Xương gò má thường di lệch theo hai trục: một trục đứng đi qua khớp trán – gò má và một trục ngang đi từ cung Zygoma đến lỗ dưới ổ mắt.

Chấn thương trực tiếp vào thân xương gò má có thể làm gãy nó nhưng không làm di lệch, hoặc có thể làm lún hẳn xương gò má vào xoang – ổ mắt và làm tách rời các điểm tiếp khớp của xương gò má.

Chấn thương ở phía trước của trục đứng sẽ làm xương gò má xoay gần và lún vào trong xoang, gián đoạn bờ dưới ổ mắt, mỏm tiếp tách rời khỏi xương thái dương và nhô lên.

Chấn thương vào phía sau trục đứng sẽ làm xương gò má xoay về phía xa, lún vào hố thái dương, gián đoạn bờ dưới ổ mắt, mất độ lồi của của xương gò má

Chấn thương vào phía trên của trục ngang sẽ làm mỏm trán của xương gò má xoay lún vào trong, tách khỏi khớp thái dương gò má, thân xương lún vào trong, mất liên tục bờ dưới ổ mắt, và thường thì xương bị gãy làm nhiều mảnh và hơi bị xệ xuống.

Chấn thương vào phía dưới của trục ngang, góc dưới của xương gò má, làm góc dưới xương gò má xoay vào trong, lõm hẳn vào trong xoang, góc trên tách rời hoàn toàn khỏi khớp thái dương gò má, xương gò má thể lún vào trong, làm mất độ lồi của xương gò má.

Tuỳ theo vị trí của chấn thương mà các di lệch như trên có thể tách rời hay kết hợp với nhau, tuỳ từng trường hợp.

6. Phân loại gãy xương gò má:

Có nhiều cách phân loại, nhưng hiện nay có hai cách phân loại phổ biến là phân loại của Knight & North (1961) và phân loại của Larson & Thomson (1972).

a).Phân loại theo Knight J.S. và North J.F. : Là cách phân loại dễ nhớ nên hay được sử dụng hiện nay, có 6 loại gãy xương gò má:

– Loại 1: Gãy xương gò má có di lệch nhưng không đáng kể.

– Loại 2: Gãy cung Zygoma .

– Loại 3: Gãy xương gò má di lệch vào trong (lún) xuống dưới nhưng không bị xoay trục.

– Loại 4: Gãy xương gò má di lệch xoay vào trong. Có hai biến thể:

+ Loại 4A: mấu gò má bật ra ngoài.

+ Loại 4B: mỏm trán của xương gò má xoay vào trong.

– Loại 5: Gãy xương gò má di lệch xoay ra ngoài. Có hai biến thể:

+ Đầu gãy ở bờ dưới ổ mắt di lệch lồi lên trên.

+ Mỏm trán của xương gò má xoay ra ngoài.

– Loại 6: Gãy phức tạp (trên 3 mảnh).

b). Phân loại của Larson O.D. và Thomson M.: là cách phân loại giúp ích nhiều trong việc định hướng điều trị, 4 loại gãy xương gò má:

– loại 1: gãy không di lệch.

– Loại 2: khớp trán gò má không bị tách rời, xương gò má bị tụt xuống, phần ngoài của sàn ổ mắt bị giãn ra, có thể chỉ cần điều trị bằng nắn chỉnh mà không cần kết hợp xương.

– Loại 3 A: xương gò má vẫn còn dính với xương hàm trên ở khớp gò má hàm trên, nhưng bị tách rời hoàn toàn khỏi xương trán ở khớp trán – gò má, bờ ngoài ổ mắt bị lún vào trong, thường do lực tác động từ trên xuống dưới, góc mắt ngoài bị xệ xuống dưới do mấu ổ mắt ngoài di lệch xuống dưới, sờ dọc theo bờ ngoài ổ mắt thấy gián đoạn. Hướng điều trị là nắn chỉnh và kết hợp xương.

– Loại 3B: xương gò má vẫn còn dính với xương hàm trên ở khớp gò má hàm trên, nhưng bị tách rời khỏi xương trán ở khớp trán – gò má, nhưng khác với loại 3A là bờ ngoài ổ mắt bị đẩy lên trên và ra sau, làm mất độ vồng của gò má, xuất hiện một điểm gồ lên ở bờ ngoài ổ mắt do hai đầu gãy lồng vào nhau. Do xương gò má bị đẩy lên cao nên nó sẽ không chèn vào mỏm vẹt và không gây đau khi há ngậm miệng. Loại gãy này cần được nắn chỉnh kết hợp xương

– Loại 4: Xương gò má bị tách rời hoàn toàn, bờ dưới và bờ ngoài ổ mắt bị xoay xuống dưới, sàn ổ mắt mất liên tục, góc mắt ngoài có thể bị sa xuống, bệnh nhân thường bị song thị và lõm mắt. Loại di lệch này thường cần phẫu thuật kết hợp xương và tái tạo lại sàn ổ mắt.

7. Triệu chứng và ảnh hưởng của gãy xương gò má lên các cơ quan lân cận:

Khám ngay sau chấn thương sẽ thấy xương gò má mất độ vồng, góc mắt ngoài di lệch (do sa dây chằng mi mắt ngoài) làm cho khi nhìn có cảm giác như bệnh nhân bị sa mi mắt. Đôi khi có thể gặp sa mi mắt dưới do bờ dưới ổ mắt sa xuống dưới và lún vào trong. Lõm mắt thường ít phát hiện được ở giai đoạn này.

Vỡ xoang hàm có thể gây chảy máu mũi và tràn khí trong ổ mắt. Tuy nhiên do phù nề và tụ máu vùng ổ mắt tiến triển nhanh sẽ làm che lấp các biến dạng trên.

Sờ có thể phát hiện thấy khớp thái dương – gò má (cung zygoma) mất liên tục và có điểm đau chói. Đôi khi có thể thấy bờ dưới ổ mắt mất liên tục hoặc là gập góc.

Sờ ở ngách tiền đình hàm trên cũng có thể có điểm đau chói nhất là khi góc dưới của xương gò má gãy. Đôi khi có thể phát hiện thấy tụ máu dưới niêm mạc ở ngách tiền đình.

Có thể có tràn khí dưới da vùng má và mi mắt dưới, cho ta dấu lép bép khi khám. Tràn khí đôi khi có thể lan đến cổ – ngực với dấu hiệu tràn khí trung thất.

Há miệng hạn chế do mỏm vẹt xương hàm dưới vướng vào xương gò má gãy hay do cung Zygoma gãy lún vào trong hoặc cũng có thể do sự co thắt phản ứng của cơ thái dương và cơ cắn

Không có rối loạn khớp cắn nhưng há miệng có thể bị lệch về bên gãy.

Giảm hoặc mất cảm giác ở vùng da do dây thần kinh dưới ổ mắt chi phối (má, cánh mũi, lợi và răng trước) gặp trong 30% – 80% trường hợp, do mảnh xương gãy chèn ép hay làm rách dây thần kinh. Mất cảm giác thường hồi phục sau khi ta giải quyết chèn ép. Nếu không giải quyết được chèn ép thì bệnh nhân có thể bị đau dây thần kinh sau này.

Chảy máu dưới kết mạc có thể gặp và thường thì xuất hiện muộn hơn. Nhãn cầu tụt vào trong do sa góc mắt ngoài, triệu chứng này chỉ thấy được khi phù nề đã hết, đôi khi lõm mắt còn có thể do các thành phần trong ổ mắt thoát vị vào trong xoang. Triệu chứng này thường tiến triển xấu ngay cả khi đã được điều trị, nhất là khi xảy ra thiểu sản trong ổ mắt thứ phát.

Có thể có lồi mắt, thường do chảy máu sau nhãn cầu, đẩy nhãn cầu ra trước và hạn chế cử động của nhãn cầu, gây tổn thương giác mạc đôi dẫn đến mù.

Vận động nhãn cầu rất khó đánh giá ở giai đoạn đầu do tụ máu và phù nề. Khoảng 20 – 30% bị song thị ngay sau chấu thương, nhất là khi nhìn lên. Song thị thường là do cơ chế cơ học (80%) và chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn (66%), nhưng đôi khi cũng có thể tồn tại kéo dài.

Lún sàn ổ mắt có thể làm kẹt bao Tenon của nhãn cầu trong đó đặc biệt là dây chằng treo Lock – Wood bao gồm cả cơ thẳng dưới và cơ chéo nhỏ. Đôi khi sàn ổ mắt bị vỡ phần sau làm giới hạn vận động nhìn xuống. Ta phải chú ý rằng không có sự tương ứng giữa loại gãy xương hàm dưới với rối loạn vận động nhãn cầu và nhất là không có sự tương ứng giữa mức độ kẹt của tổ chức quanh ổ mắt với mức độ tổn thương vận động nhãn cầu do luôn tồn tại những cơ chế bù trừ.

Khi khớp trán gò má bị giãn rộng thì một phần của tuyến lệ có thể bị thoát vị, kẹt vào giữa hai đầu gãy, mà ta có thể phát hiện được khi phẫu thuật với đứt điểm bám ngoài của dây chằng Schwalbe (đây là dây chằng lỏng lẻo bám vào mỏm trán của xương gò má). Còn dây chằng Whitnall và Sommering bám vào mỏm ổ mắt của xương trán thì thường không bị tổn thương.

Để chẩn đoán gãy xương gò má ta có thể làm một số Test kiểm tra bổ xung như soi đáy mắt, Test Lancaster để kiểm tra vận động nhãn cầu.

Xquang có một tầm quan trọng đặc biệt trong chẩn đoán gãy xương gò má, thường hay sử dụng fim tư thế Hirtz hay Blondeau. Nếu điều kiện cho phép thì scanner với mặt cắt ngang và đứng ngang cho phép đánh giá đầy đủ tổn thương của xương gò má cũng như các cơ quan lân cận

8. Lịch sử điều trị gãy xương gò má:

Năm 1896, Matas báo cáo điều trị gãy xương gò má bằng cách buộc dây xuyên qua da để nâng cung gò má gãy.

Năm 1906, Lorthrop là người đầu tiên mô tả chỉnh hình xương gò má qua xoang hàm, phương pháp này bao gồm thực hiện một lỗ thông mũi xoang ở khe mũi dưới, sau đó đưa một sonde sắt qua lỗ thông vào trong xoang hàm để nâng xương gò má gãy. Sau đó cố định bằng gạc.

Năm 1909, Keen mô tả phương pháp chỉnh hình xương gò má qua đường miệng, dùng một dụng cụ nhỏ dùi qua niêm mạc miệng, hướng về sau ngách tiền đình trên, luồn dụng cụ về phía sau cung gò má, chỉnh hình qua lực của dụng cụ nâng, chỗ thủng niêm mạc không cần khâu.

Năm 1917, Deiber đã báo cáo dùng mảnh ghép xương sườn để tái tạo lại bờ dưới ổ mắt trong những trường hợp bệnh nhân bị thiếu hổng xương bờ dưới cửa ổ mắt do chấn thương.

Năm 1927, Gillies mô tả kỹ thuật tiếp cận xương gò má qua một đường rạch ngắn khoảng 2-3 cm trên đường chân tóc, ở vùng thái dương, trượt dụng cụ nâng xuống phía sau xương gò má, rồi nâng dụng cụ ra phía ngoài và ra trước phối hợp với bàn tay đối diện để nắn chỉnh xương gãy

Năm 1940, Limberg dùng một móc xương để nâng xương gò má.

Năm 1964, Dingman và Natvig đã nhận xét: trong khi kỹ thuật chỉnh hình kín phổ biến và hấp dẫn khi xử trí vỡ xương gò má, các nhà phẫu thuật nhiều kinh nghiệmcó thể nhanh chóng nhận thấy rằng: trong nhiều trường hợp các phương pháp chỉnh hình kín có những hạn chế của nó.

Ngày nay tuỳ từng trường hợp tổn thương mà có các phương pháp điều trị khác nhau, phương pháp phẫu thuật nắn chỉnh kết hợp xương được thực hiện trong các trường hợp có di lệch, có thể dùng chỉ thép, nẹp vít, đinh Kirschner, cố định ngoài, hay dùng bóng đặt trong xoang.

Ở Việt nam đâ có một số tác giả nghiên cứu về gãy xương gò má:

– Nguyễn Khắc Giảng (1978) chẩn đoán và các phương pháp điều trị gãy tầng giữa mặt không điển hình trong cấp cứu chấn thương hàm mặt.

– Nguyễn Thế Dũng (1994) Nghiên cứu về gãy xương gò má, kết quả điều trị qua 72 trường hợp tại bệnh viện Khánh Hòa.

– Nguyễn Huyền Trâm (1996) Nghiên cứu về điều trị gãy xương gò má bằng phương pháp kết hợp xương cố định bằng chỉ thép.

– Nguyễn Quốc Trung (1997) Nghiên cứu hình thái lâm sàng, phương pháp điều trị gãy xương gò má, cung tiếp tại viện Răng Hàm Mặt Hà nội.

Mục đích của điều trị là nắn chỉnh biến dạng xương và phục hồi thẩm mỹ cũng như chức năng của phần xương gãy. Để ổn định xương gò má trong không gian ba chiều sau khi nắn chỉnh, thì nên kết hợp xương.

Phẫu thuật nên tiến hành ở ngày thứ 4 – 8 sau chấn thương khi đã hết phù nề, nhưng chú ý không nên để quá lâu vì xương gò má gãy cal xơ nhanh. chính vì lý do này mà ở trẻ em thì nên tiến hành phẫu thuật sớm hơn.

Nắn chỉnh để phục hồi lại đường viền và kích thước của ổ mắt, giải phóng chèn ép dây thần kinh dưới ổ mắt. Phục hồi lại các chức năng của nhãn cầu – mi mắt bằng việc phục hồi lại dây chằng mi mắt ngoài và sàn ổ mắt.

Điều trị bao gồm hai bước: Nắn chỉnh và cố định

Có nhiều phương pháp và dụng cụ nắn chỉnh khác nhau.

– Có thể đưa một sonde sắt xuyên qua thành mũi xoang, đi vào trong xoang để nắn xương gò má gãy.

– Đi đường trong miệng, qua ngách tiền đình dùng cây bóc tách để nắn.

– Qua một đường rạch ở vùng thái dương, trên đường chân tóc khoảng 5-6 mm, luồn một cây bóc tách xuống để nắn xương gò má gãy.

– Hiện nay thường sử dụng móc loại lớn Ginester xuyên qua da, luồn dưới thân xương, sau đó kéo nắn.

– Gần đây một số tác giả đề nghị sử dụng nội soi để nắn chỉnh và kết hợp xương gãy.

– Tuỳ theo loại di lệch mà có thể dùng một hay nhiều phương pháp phối hợp nhau để nắn xương gãy, và cũng tuỳ theo loại di lệch mà hướng kéo nắn khác nhau, khi nắn thì phải kiểm soát được lực kéo, tránh kéo không kiểm soát làm bật mảnh xương gò má ra ngoài.

Đối với những trường hợp gãy đơn giản sau khi nắn chỉnh các đầu mảnh gãy cài chắc vào nhau thì ta có thể không cần kết hợp cố định

Cố định xương gò má trong vòng 3 tuần để xương có thể liền vững. Có nhiều phương pháp cố định khác nhau:

– Franchebois (1962) đã đề nghị đặt một Sonde Foley trong xoang và bơm lên để đỡ xương gò má. Phương pháp này càng hiệu quả nếu ta kết hợp xương ở khớp trán – gò má. Tuy nhiên phương pháp này cũng như phương pháp trên là không đảm cố định vững, và dễ có di lệch thứ phát sau khi rút Sonde ngày thứ 7-10. Ngoài ra việc mang một sonde Foley trong miệng thì thường gây khó chịu cho bệnh nhân.

– Kết hợp xương bằng chỉ thép được Adams W.M. đề nghị từ 1942, được nhiều tác giả chấp nhận và sử dụng cho đến ngày nay. Đây là một phương pháp tương đối hiệu quả, rẻ tiền, nhưng nó có nhược điểm là không đảm bảo cố định vững mảnh xương gãy ngay cả khi cố định ở cả 3 điểm (trán-gò má, bờ dưới ổ mắt, trụ gò má – hàm trên). Ngoài ra do xương hai phía đầu gãy thường mảnh nên việc phục hồi đúng cấu trúc giải phẫu thường khó khăn. Do phải cố định ở nhiều điểm nên phải đi vào nhiều đường, ảnh hưởng đến thẩm mỹ.

– Cố định xương bằng nẹp vít được Duker báo cáo từ năm 1972. Đây tỏ ra là một phương pháp có nhiều ưu điểm, đảm bảo cố định vững mảnh gãy, phục hồi cấu trúc giải phẫu, dễ thực hiện, nhưng có nhược điểm là tốn kém.

– Người ta đã từng nghĩ rằng cố định xương bằng một nẹp vít ở khớp trán gò má hay bằng chỉ thép ở ba điểm gãy của xương gò má đủ để cố định xương gãy, nhưng theo những nghiên cứu mới đây cho thấy cách cố định này không đủ vững do hoạt động của các cơ nhai sẽ làm di lệch. Cố định xương gò má bằng nẹp vít ở tối thiểu hai vị trí gãy đã được nhiều tác giả chấp nhận, thường thì ở khớp trán – gò má và bờ dưới ổ mắt, vì đường mổ vào ở những vị trí này ít bị thấy và có thể kết hợp kiểm tra sàn ổ mắt trong khi mổ.

– Cố định xương gò má gãy bằng đinh Kischner được Samuels H.S. và Oatis G.W. báo cáo từ năm 1970 sau đó được Brown J. và Barnard D. (1983) thực hiện thường qui , tác giả đề nghị đóng một đinh kischner cỡ lớn, dài xuyên từ xương gò má bên lành sang bên gãy để cố định xương gò má. Phương pháp này có ưu điểm là rẻ tiền, thời gian phẫu thuật nhanh, thời gian lưu trú của bệnh nhân ngắn và cố định tương đối vững xương gãy.

– Cố định bằng khí cụ ngoài: hiện nay ít được sử dụng.

10. Di chứng của gãy xương gò má:

Nếu điều trị không tốt thì có thể để lại các di chứng về thẩm mỹ và chức năng như:

– Lạc chỗ mi mắt ngoài.

– Mất cảm giác ở vùng dây thần kinh dưới ổ mắt chi phối.

– Viêm xoang hàm tái diễn.

Cấu Tạo Xương Bàn Chân, Gãy Xương Bàn Chân Bao Lâu Thì Lành?

Cấu tạo bàn chân, xương bàn chân

Bàn chân và cổ chân tạo thành một cấu trúc phức tạp bao gồm:

✲ 26 xương hình dạng không đều

✲ 30 khớp hoạt dịch

✲ 30 cơ tác động lên các phân đoạn. Các khớp xương bàn chân tương tác hài hòa với cơ thể con người để thuận lợi cho quá trình vận động, đi lại.

Bàn chân được chia làm 3 vùng:

Bàn chân sau bao qồm xương sên và xương gót

Bàn chân giữa bao gồm xương ghe, 3 xương chêm và xương hộp

Bàn chân trước bao gồm xương bàn ngón và xương ngón chân

Các khớp bàn chân

Khớp cổ chân: là một khớp bản lề một trục được tạo bởi xương chày và xương mác, xương chày và xương sên.

Khớp dưới sên: là khớp giữa xương sên và xương gót. Đây là các xương chịu trọng lượng lớn của bàn chân và tạo thành bàn chân sau.

Khớp cổ – bàn ngón chân: là các khớp trượt, tạo các chuyển động giữa các xương chêm, xương hộp với các xương bàn ngón

Các cung vòm của bàn chân

Các xương cổ chân và bàn ngón tạo nên ba vòm, hai vòm chạy theo chiều dọc và một vòm chạy ngang bàn chân

Vòm dọc bên ngoài được hình thành bởi xương gót, xương hộp, xương bàn ngón thứ tư và thứ năm.

Vòm dọc trong chạy từ xương gót đến xương sên, ghe, chêm và ba xương bàn ngón đầu tiên.

Vòm ngang được tạo bởi các xương cổ chân nêm vào và nền các xương bàn ngón.

Các cơ ở bàn chân

Cơ ở mu chân là cơ nhỏ, giúp cơ duỗi các ngón chân.

Cơ ở gan chân giúp giữ vững các vòm gan chân và làm cho con người đứng vững trên mặt đất.

Bàn chân bao gồm nhiều xương, các cơ và khớp bàn chân, tạo lên một bàn chân vững chắc, giúp con người di chuyển, vận động hàng ngày. Nếu một trong các xương bàn chân, cơ hoặc khớp bị tổn thương, sẽ khiến quá trình vận động của con người bị hạn chế.

Gãy xương bàn chân

Gãy xương bàn chân là một chấn thương rất hay gặp, ảnh hưởng tới chức năng vận động của cơ thể, vì thế cần được cấp cứu và xử trí kịp thời.

Nguyên nhân gãy xương bàn chân

Gãy xương chân là tình trạng xương bị vỡ, nghiền nát hoặc uốn cong do các nguyên nhân như:

Gãy xương ngón chân do va chạm, đá vào vật cứng

Gãy xương gót chân do ngã từ trên cao xuống, tai nạn

Gãy các xương khác ở bàn chân do lực xoáy, vặn mạnh ở bàn chân hoặc tai nạn giao thông, té ngã, vận động quá mức

Gãy xương bàn chân thường bị đột ngột. Nhiều trường hợp gãy từ những vết nứt nhỏ ở xương trong thời gian dài trước đó. Trường hợp này hay gặp ở những vận động viên điền kinh, bộ đội…

Dấu hiệu cảnh báo gãy xương

Khi bị gãy xương, người bệnh sẽ thấy xuất hiện các triệu chứng như:

Đi lại khó khăn

Biến dạng xương như xương gãy đâm ra ngoài hoặc bàn chân trẹo hẳn sang một bên

Khi thấy xuất hiện các triệu chứng bất thường ở bàn chân, bạn nên tới các bệnh viện có chuyên khoa Cơ xương khớp để bác sĩ trực tiếp thăm khám. Qua khám lâm sàng, kết hợp làm các chẩn đoán chuyên sâu như X-quang, bác sĩ sẽ xác định chính xác xương gãy, mức độ gãy xương. Từ đó đưa ra phương pháp điều trị phù hợp, nhanh chóng và hiệu quả nhất.

Gãy xương bàn chân bao lâu thì lành?

Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của gãy xương bàn chân, độ tuổi của từng người bệnh sẽ có thời gian phục hồi khác nhau.

Trường hợp gãy xương nhẹ chỉ cần bó bột, đeo nẹp thì thời gian phục hồi nhanh hơn.

Ngược lại trường hợp gãy xương mức độ nặng cần phải phẫu thuật đặt đinh, ốc vít… thì thời gian phục hồi lâu hơn.

Thông thường, khi bị gãy xương sẽ lành lại sau 2-3 tháng.

Để bệnh sớm hồi phục, người bệnh gãy xương cần tuân thủ theo đúng phương pháp điều trị của bác sĩ, dùng đúng thuốc, đủ liều lượng và thời gian quy định. Đồng thời tuân thủ theo hướng dẫn về chế độ nghỉ ngơi, sinh hoạt và ăn uống khoa học, tái khám kiểm tra theo đúng lịch hẹn.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Điều Trị Chó Mèo Bị Gãy Chân, Gãy Xương, Rạn Xương trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!