Đề Xuất 3/2023 # Cổng Điện Tử # Top 8 Like | Comforttinhdauthom.com

Đề Xuất 3/2023 # Cổng Thông Tin Điện Tử # Top 8 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Cổng Điện Tử mới nhất trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Trồng ngô cho giá trị kinh tế cao hơn so với cùng diện tích trồng lúa, sắn. Tại Long An, qua thực hiện mô hình trồng ngô thích ứng với biến đổi khí hậu tại xã Tân Phú và Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa (Long An), hầu hết diện tích ngô thu hoạch cho năng suất khá cao, bình quân từ 6,5 – 7 tấn/ha. Đây là mô hình thay đổi phương thức sản xuất do Trung tâm Khuyến nông tỉnh phối hợp Dự án Rừng và Đồng bằng Việt Nam thực hiện.     Mô hình được thực hiện trên diện tích 1 ha và Dự án hỗ trợ 150 kg phân hữu cơ sinh học, 1 kg nấm xanh, 20 kg ngô giống và toàn bộ kinh phí cho lớp tập huấn gắn thực hành trên đồng ruộng.     Kết quả sau khi thực hiện, mô hình đều cho kết quả khả quan. So với sản xuất truyền thống, mô hình giảm được 20 – 25% phân đạm, 33% phân lân, giảm 4 lần phun thuốc bảo vệ thực vật; đồng thời, tăng năng suất ngô lên từ 10 – 15 tấn/ha, lợi nhuận tăng từ 8 – 11 triệu đồng/ha.     Với mục tiêu xây dựng và hình thành mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi, từ cuối tháng 8-2016, bằng nguồn kinh phí của Công ty TNHH Phú Lâm, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện chuyển đổi diện tích lúa, hoa màu kém hiệu quả sang trồng ngô sinh khối tại các xã Quảng Minh, Quảng Đức với 20ha mô hình mẫu.     Mô hình sử dụng các giống ngô lai đơn NK7328, P4199 và AVA3668, có khả năng chịu hạn tốt, sinh trưởng và phát triển khoẻ, dễ chăm sóc, chiều cao đạt từ 2,2-2,3m, đường kính thân lớn; thời gian sinh trưởng từ khi gieo trồng đến lúc chín sữa khoảng 75-80 ngày. Qua triển khai cho thấy ngô sinh khối có khả năng thích ứng rộng với điều kiện ngoại cảnh, thổ nhưỡng của các địa phương.     Trong quá trình thực hiện mô hình, các gia đình được Công ty TNHH Phú Lâm cung ứng trước giống, phân bón và được hướng dẫn kỹ thuật. Công ty thực hiện thu mua tại chỗ theo đúng cam kết, giá 950 đồng/kg. Các gia đình có thể sản xuất được 3 vụ ngô/năm, hiệu quả kinh tế cao hơn rất nhiều so với trồng lúa và các loại rau màu khác. Hợp đồng với Công ty TNHH Phú Lâm là lâu dài nên các hộ yên tâm phát triển cây ngô sinh khối.     Vụ ngô này toàn huyện trồng được 60ha cung ứng cho Công ty TNHH Phú Lâm khoảng 600 tấn ngô sinh khối. Vụ hè thu tới, huyện vận động người dân trồng khoảng 100ha ngô sinh khối, đạt 1/4 diện tích theo quy hoạch.     Để tạo bước đột phá trong năng suất, sản lượng cũng như hệ số sử dụng đất, ngành nông nghiệp huyện Anh Sơn, Nghệ An có chủ trương sản xuất ngô sinh khối lớn với số lượng 4 vụ/năm.     Trong số hơn 2.300 ha ngô mỗi vụ của toàn huyện, có khoảng hơn 400 ha được người dân các xã Tam Sơn, Đỉnh Sơn, Thạch Sơn, Cẩm Sơn trồng ngô sinh khối lớn. Ông Nguyễn Đình Đăng- Trưởng Phòng Nông nghiệp huyện Anh Sơn cho biết: Ngô sinh khối có nhiều cái lợi như rút ngắn thời gian mỗi vụ; tránh được lũ chính vụ; tăng hệ số sử dụng đất và tăng hiệu quả kinh tế…  Việc áp dụng thí điểm trồng ngô 4 vụ/năm hiện nay mới chỉ có xã Tam Sơn thực hiện, tuy nhiên qua đánh giá ban đầu cho thấy rất khả quan. Hiện nay ngành nông nghiệp huyện đang theo dõi, đánh giá từ đó nhân rộng mô hình.     So với việc trồng ngô thương phẩm, trồng ngô sinh khối mang lại nguồn lợi nhuận lẫn tiết kiệm chi phí cho người nông dân hơn nhiều. Theo tính toán của người dân, ngô sinh khối có thời gian sinh trưởng ngắn từ 85-90 ngày còn ngô lấy hạt phải mất từ 110-120 ngày mới cho thu hoạch. Nếu chăm sóc tốt mỗi sào đạt năng suất 1,8 tấn/vụ, với giá 850.000 đồng/tấn. Mỗi năm người dân thu trên 7 tấn ngô cây, trị giá hơn 6 triệu đồng.     Nếu thời tiết thuận lợi, trồng ngô sinh khối bà con nông dân thu nhập trên 100 triệu đồng/ha/năm, còn trồng ngô lấy hạt chỉ thu từ 60 – 70 triệu đồng/ha/năm. Nguyên nhân, trồng ngô sinh khối quay vòng được 4 vụ/năm, còn trồng ngô lấy hạt chỉ sản xuất được 3 vụ/năm. Đầu ra sản phẩm hiện đã có nhiều công ty về thu mua như các Công ty bò sữa TH, Vinamilk, công ty nuôi bò thịt, nhà máy chế biến thức ăn.     Huyện Kon Plong, Kon Tum đã làm việc với các doanh nghiệp liên kết, hỗ trợ người dân 3 xã thực hiện chuyển đổi một số diện tích trồng sắn, đất bỏ hoang hóa, diện tích không sản xuất vụ lúa Đông Xuân 2016-2017 sang trồng cây ngô lấy thân làm thức ăn cho gia súc. Với diện tích đã gieo trồng 20 ha, cây ngô đã chiếm ưu thế trong các loại cây trồng chuyển đổi tại một số nơi và đang được nhân rộng ra nhiều địa phương.     Hiện người dân ở 3 xã Măng Bút, Ngọc Tem, Hiếu thuộc huyện Kon Plong, tỉnh Kon Tum đang tập trung thu hoạch gần 20 ha ngô, lấy thân ngô để làm thức ăn chăn nuôi.     Xã Măng Bút trồng ngô lấy cây trên diện tích 8,2 ha, hiện đã thu hoạch 1,1 ha, thu về 14,5 triệu đồng trên khối lượng gần 20 tấn. Diện tích trồng ngô lấy thân tại xã Hiếu là 0,9 ha đã cho thu hoạch gần 24 tấn thân với số tiền hơn 16 triệu đồng, đạt năng suất 25 tấn/ha. 3,6 ha còn lại đang trong thời điểm bà con tập trung thu hoạch. 7 ha cây ngô lấy thân tại xã Ngọc Tem đang trong thời vụ thu hoạch, cây phát triển xanh tốt cho hiệu quả cao.     So với cây sắn, cây lúa trước đây trên cùng một diện tích, cây ngô lấy thân cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Cây ngô lấy thân có thể trồng 2-3 vụ/năm hợp với đất nghèo dinh dưỡng, ít tốn công chăm sóc, ít sâu bệnh lại được hỗ trợ giống, kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm nên người dân rất hào hứng.     Từ cuối tháng 1/2017, Trạm Khuyến nông huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã tổ chức triển khai mô hình trồng ngô lấy thân CP3Q tại xã Mỹ Trạch với diện tích 5 ha. Ngoài việc hỗ trợ 100% giống và 30% chi phí phân bón, Trạm Khuyến nông Bố Trạch thường xuyên cử cán bộ kỹ thuật theo dõi, giám sát và chỉ đạo quá trình thực hiện.     Theo đánh giá, giống ngô lấy thân CP3Q sinh trưởng và phát triển tốt, khả năng chống chịu bệnh cao, năng suất trung bình đạt 54 tấn/ha. Đặc biệt, thời gian sinh trưởng của ngô ngắn nên mỗi năm có thể trồng từ 2 đến 3 vụ. Với giá hợp đồng bao tiêu sản phẩm 800 đồng/kg với các công ty chăn nuôi bò đóng chân trên địa bàn, sau khi trừ chi phí, mỗi ha có thể cho lãi khoảng 24 triệu đồng.     Có thể khẳng định việc phát triển sản xuất ngô theo hướng đa dạng hóa chủng loại, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi liên kết với người sản xuất, hợp tác xã thu mua ngô tươi để đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm là một hướng đi mới giúp bà con tăng thêm thu nhập, nâng cao hiệu quả sản xuất.

Tại Long An, qua thực hiện mô hình trồng ngô thích ứng với biến đổi khí hậu tại xã Tân Phú và Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa (Long An), hầu hết diện tích ngô thu hoạch cho năng suất khá cao, bình quân từ 6,5 – 7 tấn/ha. Đây là mô hình thay đổi phương thức sản xuất do Trung tâm Khuyến nông tỉnh phối hợp Dự án Rừng và Đồng bằng Việt Nam thực hiện.Mô hình được thực hiện trên diện tích 1 ha và Dự án hỗ trợ 150 kg phân hữu cơ sinh học, 1 kg nấm xanh, 20 kg ngô giống và toàn bộ kinh phí cho lớp tập huấn gắn thực hành trên đồng ruộng.Kết quả sau khi thực hiện, mô hình đều cho kết quả khả quan. So với sản xuất truyền thống, mô hình giảm được 20 – 25% phân đạm, 33% phân lân, giảm 4 lần phun thuốc bảo vệ thực vật; đồng thời, tăng năng suất ngô lên từ 10 – 15 tấn/ha, lợi nhuận tăng từ 8 – 11 triệu đồng/ha.Với mục tiêu xây dựng và hình thành mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi, từ cuối tháng 8-2016, bằng nguồn kinh phí của Công ty TNHH Phú Lâm, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện chuyển đổi diện tích lúa, hoa màu kém hiệu quả sang trồng ngô sinh khối tại các xã Quảng Minh, Quảng Đức với 20ha mô hình mẫu.Mô hình sử dụng các giống ngô lai đơn NK7328, P4199 và AVA3668, có khả năng chịu hạn tốt, sinh trưởng và phát triển khoẻ, dễ chăm sóc, chiều cao đạt từ 2,2-2,3m, đường kính thân lớn; thời gian sinh trưởng từ khi gieo trồng đến lúc chín sữa khoảng 75-80 ngày. Qua triển khai cho thấy ngô sinh khối có khả năng thích ứng rộng với điều kiện ngoại cảnh, thổ nhưỡng của các địa phương.Trong quá trình thực hiện mô hình, các gia đình được Công ty TNHH Phú Lâm cung ứng trước giống, phân bón và được hướng dẫn kỹ thuật. Công ty thực hiện thu mua tại chỗ theo đúng cam kết, giá 950 đồng/kg. Các gia đình có thể sản xuất được 3 vụ ngô/năm, hiệu quả kinh tế cao hơn rất nhiều so với trồng lúa và các loại rau màu khác. Hợp đồng với Công ty TNHH Phú Lâm là lâu dài nên các hộ yên tâm phát triển cây ngô sinh khối.Vụ ngô này toàn huyện trồng được 60ha cung ứng cho Công ty TNHH Phú Lâm khoảng 600 tấn ngô sinh khối. Vụ hè thu tới, huyện vận động người dân trồng khoảng 100ha ngô sinh khối, đạt 1/4 diện tích theo quy hoạch.Để tạo bước đột phá trong năng suất, sản lượng cũng như hệ số sử dụng đất, ngành nông nghiệp huyện Anh Sơn, Nghệ An có chủ trương sản xuất ngô sinh khối lớn với số lượng 4 vụ/năm.Trong số hơn 2.300 ha ngô mỗi vụ của toàn huyện, có khoảng hơn 400 ha được người dân các xã Tam Sơn, Đỉnh Sơn, Thạch Sơn, Cẩm Sơn trồng ngô sinh khối lớn. Ông Nguyễn Đình Đăng- Trưởng Phòng Nông nghiệp huyện Anh Sơn cho biết: Ngô sinh khối có nhiều cái lợi như rút ngắn thời gian mỗi vụ; tránh được lũ chính vụ; tăng hệ số sử dụng đất và tăng hiệu quả kinh tế… Việc áp dụng thí điểm trồng ngô 4 vụ/năm hiện nay mới chỉ có xã Tam Sơn thực hiện, tuy nhiên qua đánh giá ban đầu cho thấy rất khả quan. Hiện nay ngành nông nghiệp huyện đang theo dõi, đánh giá từ đó nhân rộng mô hình.So với việc trồng ngô thương phẩm, trồng ngô sinh khối mang lại nguồn lợi nhuận lẫn tiết kiệm chi phí cho người nông dân hơn nhiều. Theo tính toán của người dân, ngô sinh khối có thời gian sinh trưởng ngắn từ 85-90 ngày còn ngô lấy hạt phải mất từ 110-120 ngày mới cho thu hoạch. Nếu chăm sóc tốt mỗi sào đạt năng suất 1,8 tấn/vụ, với giá 850.000 đồng/tấn. Mỗi năm người dân thu trên 7 tấn ngô cây, trị giá hơn 6 triệu đồng.Nếu thời tiết thuận lợi, trồng ngô sinh khối bà con nông dân thu nhập trên 100 triệu đồng/ha/năm, còn trồng ngô lấy hạt chỉ thu từ 60 – 70 triệu đồng/ha/năm. Nguyên nhân, trồng ngô sinh khối quay vòng được 4 vụ/năm, còn trồng ngô lấy hạt chỉ sản xuất được 3 vụ/năm. Đầu ra sản phẩm hiện đã có nhiều công ty về thu mua như các Công ty bò sữa TH, Vinamilk, công ty nuôi bò thịt, nhà máy chế biến thức ăn.Huyện Kon Plong, Kon Tum đã làm việc với các doanh nghiệp liên kết, hỗ trợ người dân 3 xã thực hiện chuyển đổi một số diện tích trồng sắn, đất bỏ hoang hóa, diện tích không sản xuất vụ lúa Đông Xuân 2016-2017 sang trồng cây ngô lấy thân làm thức ăn cho gia súc. Với diện tích đã gieo trồng 20 ha, cây ngô đã chiếm ưu thế trong các loại cây trồng chuyển đổi tại một số nơi và đang được nhân rộng ra nhiều địa phương.Hiện người dân ở 3 xã Măng Bút, Ngọc Tem, Hiếu thuộc huyện Kon Plong, tỉnh Kon Tum đang tập trung thu hoạch gần 20 ha ngô, lấy thân ngô để làm thức ăn chăn nuôi.Xã Măng Bút trồng ngô lấy cây trên diện tích 8,2 ha, hiện đã thu hoạch 1,1 ha, thu về 14,5 triệu đồng trên khối lượng gần 20 tấn. Diện tích trồng ngô lấy thân tại xã Hiếu là 0,9 ha đã cho thu hoạch gần 24 tấn thân với số tiền hơn 16 triệu đồng, đạt năng suất 25 tấn/ha. 3,6 ha còn lại đang trong thời điểm bà con tập trung thu hoạch. 7 ha cây ngô lấy thân tại xã Ngọc Tem đang trong thời vụ thu hoạch, cây phát triển xanh tốt cho hiệu quả chúng tôi với cây sắn, cây lúa trước đây trên cùng một diện tích, cây ngô lấy thân cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Cây ngô lấy thân có thể trồng 2-3 vụ/năm hợp với đất nghèo dinh dưỡng, ít tốn công chăm sóc, ít sâu bệnh lại được hỗ trợ giống, kỹ thuật, bao tiêu sản phẩm nên người dân rất hào hứng.Từ cuối tháng 1/2017, Trạm Khuyến nông huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã tổ chức triển khai mô hình trồng ngô lấy thân CP3Q tại xã Mỹ Trạch với diện tích 5 ha. Ngoài việc hỗ trợ 100% giống và 30% chi phí phân bón, Trạm Khuyến nông Bố Trạch thường xuyên cử cán bộ kỹ thuật theo dõi, giám sát và chỉ đạo quá trình thực hiện.Theo đánh giá, giống ngô lấy thân CP3Q sinh trưởng và phát triển tốt, khả năng chống chịu bệnh cao, năng suất trung bình đạt 54 tấn/ha. Đặc biệt, thời gian sinh trưởng của ngô ngắn nên mỗi năm có thể trồng từ 2 đến 3 vụ. Với giá hợp đồng bao tiêu sản phẩm 800 đồng/kg với các công ty chăn nuôi bò đóng chân trên địa bàn, sau khi trừ chi phí, mỗi ha có thể cho lãi khoảng 24 triệu đồng.Có thể khẳng định việc phát triển sản xuất ngô theo hướng đa dạng hóa chủng loại, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi liên kết với người sản xuất, hợp tác xã thu mua ngô tươi để đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm là một hướng đi mới giúp bà con tăng thêm thu nhập, nâng cao hiệu quả sản xuất.

Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Thanh Hóa

Page Content

I. Tọa độ địa lý.

Bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hóa

            Thanh Hoá là một tỉnh lớn của Bắc Trung Bộ có toạ độ địa lý:

            – Điểm cực Bắc: 20040’B (tại xã Tam Chung – huyện Quan Hoá)

            – Điểm cực Nam: 19018’B (tại xã Hải Thượng – Tĩnh Gia)

            – Điểm cực Đông: 106004’Đ (tại xã Nga Điền – Nga Sơn)

            – Điểm cực Tây: 104022’Đ (tại chân núi Pu Lang – huyện Quan Hóa)

            Thanh Hoá có lãnh thổ rộng lớn: 11.129,48 km2, là tỉnh có diện tích lớn thứ 5 trong cả nước. Về vị trí địa lý, Thanh Hóa tiếp giáp với các tỉnh và nước bạn như sau:

            – Phía Bắc: giáp 3 tỉnh, gồm: Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình với đường ranh giới dài 175km.

            – Phía Nam : giáp Nghệ An với đường ranh giới dài 160 km

            – Phía Đông: giáp biển Đông với chiều dài đường bờ biển 102 km.

            – Phía Tây: giáp tỉnh Hủa Phăn của nước CHDCND Lào với đường biên giới dài 192km.

            Thanh hoá nằm ở vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Bắc và các tỉnh phía Nam nước ta. Trong lịch sử nơi đây từng là căn cứ địa vững chắc chống ngoại xâm, là kho nhân tài vật lực phục vụ tiền tuyến.

            Tỉnh Thanh Hoá nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Với 102 km đường bờ biển ở đây có thể phát triển hoạt động du lịch, khai thác cảng biển; có đường quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh, đường sắt xuyên Việt và sân bay Thọ Xuân. Thêm vào đó, Thanh Hóa có quy mô diện tích lớn với nhiều vùng sinh thái khác nhau.

Đặc điểm về vị trí địa lý trở thành một trong những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của tỉnh Thanh Hóa.

II. Địa chất.

            Các chấn động uốn nếp làm nảy sinh hiện tượng tạo sơn mãnh liệt. Đoạn uốn nếp Tam Điệp là mốc kết thúc giai đoạn “biển tiến” tạo ra bán đảo Đông Dương. Do vận động địa chất lãnh thổ Thanh Hoá nâng lên thành núi, đồi uốn nếp, xếp nếp, chia khối phân tầng… phức tạp và đa dạng. Trải qua 120 triệu năm chịu ảnh hưởng của chấn động tạo sơn Himalaya, lục địa Thanh Hoá có hiện tượng nâng lên, lún xuống và tiếp tục bị phong hoá. Kết quả là một số núi biến thành đồi, một số vùng biển được lấp đi thành châu thổ phì nhiêu như hiện nay. Cũng do hiện tượng nâng lên lún xuống, mắc ma trào lên mặt đất và đáy biển hình thành nên những loại đá quý, những dãy núi granit.

III. Địa hình  

Đặc điểm chung:

Địa hình Thanh Hoá khá phức tạp, chia cắt nhiều và thấp dần theo hướng Tây – Đông. Từ phía Tây sang phía Đông có các dải địa hình núi, trung du, đồng bằng và ven biển. Trong tổng diện tích 11.129,48 km2 thì địa hình núi, trung du chiếm 73,3% ; đồng bằng 16% và vùng ven biển 10,7%.

Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành phát triển của địa hình.

Địa hình núi trung du gắn liền với hệ núi cao phía Tây Bắc và hệ núi Trường Sơn ở phía Nam. Đó là dải địa hình nằm ở rìa ngoài của miền Tây Nam Bắc Bộ đang được nâng lên, tiếp giáp với miền sụt võng là các đồng bằng châu thổ. Đây là những khu vực núi thấp uốn nếp được cấu tạo bằng nhiều loại đá khác nhau, từ các đá trầm tích (đá phiến, đá vôi, cát kết, cuội kết, sỏi kết…) đến các đá phun trào (riolit, bazan), đá xâm nhập (granit), đá biến chất (đá hoa). Chúng nằm xen kẽ với nhau, có khi lồng vào nhau và điều đó làm cho phong cảnh thay đổi không ngừng.

Địa hình đồng bằng được hình thành bởi sự bồi tụ của các hệ thống sông Mã, sông Chu, sông Yên.

Còn dải địa hình ven biển như sau: với các đảo đá vôi rải rác ngoài vụng biển, dòng phù sa ven bờ được đưa ra từ các cửa sông đã tạo nên những trầm tích dưới dạng mũi tên cát cô lập dần những khoảng biển ở phía trong và biến chúng thành những đầm nước mặn. Những đầm này về sau bị phù sa sông lấp dần, còn những mũi tên cát thì ngày càng phát triển rộng thêm, nối những cồn cát duyên hải thành những chuỗi dài chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam dạng xoè nan quạt.

Các khu vực địa hình.

Bao gồm  có 3 dạng địa hình: núi và trung du; đồng bằng ven biển.

 - Địa hình núi có độ cao trung bình 600 -700m, độ dốc trên 250; ở đây có những đỉnh núi cao như Tà Leo (1560 m) ở hữu ngạn sông Chu, Bù Ginh (1291m) ở tả ngạn sông Chu.

– Địa hình trung du có độ cao trung bình 150 – 200m, độ dốc 12 – 200, chủ yếu là các dạng đồi thấp, đỉnh bằng, sườn thoải. Dạng địa hình này rất đặc biệt, chỉ nhấp nhô lượn sóng và rất thoải.

       Dạng địa hình núi và trung du phân bố ở 11 huyện miền núi của tỉnh; là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành nông – lâm nghiệp với các loại cây lâm sản và các cây như đậu, chè, lạc, mía… các cây trồng nói trên là cơ sở để phát triển ngành chế biến nông – lâm  sản của Thanh Hoá.

– Đồng bằng châu thổ Thanh Hoá được cấu tạo bởi phù sa hiện đại, trải dài trên một bề mặt rộng hơi nghiêng về phía biển ở mé Đông Nam. Rìa Bắc và Tây Bắc là dải đất cao được cấu tạo bởi phù sa cũ của sông Mã, sông Chu, cao từ 2 – 15m. Trên đồng bằng nhô lên một số đồi núi có độ cao trung bình 200 – 300m được cấu tạo bằng nhiều loại đá khác nhau. Còn vùng ven biển phân bố chủ yếu ở các huyện, thị xã: Sầm Sơn, Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương, Tĩnh Gia. Trên địa hình này có các vùng sình lầy ở Nga Sơn và các cửa sông Mã, sông Yên… Vùng đất cát ven biển nằm ở phía trong các bãi cát, có độ cao trung bình từ 3 – 6m, ở phía Nam Tĩnh Gia, chúng có dạng sống trâu do các dãy đồi kéo dài ra biển. Bờ biển của đồng bằng Thanh Hoá là bờ biển phẳng với thềm lục địa tương đối nông và rộng. Trên địa hình ven biển này có nhiều bãi tắm nổi tiếng, như: Sầm Sơn, Hải Hòa, Hải Tiến. Đây là một trong những điểm du lịch hấp dẫn thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.

Về địa hình của Thanh Hoá rất phong phú, đa dạng; là điều kiện để Thanh Hoá phát triển các ngành nông – lâm – ngư nghiệp toàn diện và cho phép chuyển dịch cơ cấu dễ dàng trong nội bộ từng ngành. Nhiều cảnh quan đẹp kết hợp giữa rừng – biển – đồng bằng là điều kiện để phát triển du lịch, dịch vụ. Độ cao chênh lệch giữa các vùng miền núi, trung du, đồng bằng với nhiều hệ thống sông suối, tạo ra tiềm năng thuỷ điện khá phong phú…

IV. TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN.

1. Tài nguyên đất.

            Thanh Hóa có 14 nhóm đất chính với 28 loại đất khác nhau, đặc điểm các nhóm đất chính được giới thiệu trong bảng sau:

CÁC NHÓM ĐẤT CHÍNH CỦA THANH HÓA

Ký hiệu

Nhóm đất

Diện tích (ha)

Phân bố

1

2

3

4

E

Đất Feralit xói mòn trơ sỏi đá, phát triển trên các đá sa thạch, gnai

Thích hợp với các cây trồng lâm nghiệp lá nhọn, nhu cầu dinh dưỡng không cao

19.998

Phân bố rải rác ở nhiều nơi có địa hình vùng đồi ở Ngọc Lặc, Thường Xuân, Thạch Thành, Bỉm Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc, Quảng Xương, Hoằng Hóa

Fh

Đất mùn vàng đỏ trên núi

Thích hợp với cây lâm nghiệp và rừng tự nhiên

86.720

Phân bố trên núi cao 800m, như ở Quan Hóa, Lang Chánh, Như Xuân, Thường Xuân, Bá Thước, Quan Sơn, Mường Lát

Fa

Đất vàng nhạt trên đá macma axit

Thích hợp với cây ăn quả, cây công nghiệp

136.737

Phân bố ở Quan Hóa, Tây Bắc Lang Chánh, Thường Xuân

Fs

Nhóm đất đỏ vàng phát triển trên các loại đá mẹ khác nhau: macma bazơ, trung tính, axit, trầm tích, biến chất…

Thích hợp với cây lâm nghiệp, cây công nghiệp

335.537

Phân bố ở các huyện Thạch Thành, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc, Bá Thước, Như Xuân, Như Thanh

Fk

Đất nâu đỏ phát triển trên đá macma bazơ và trung tính

Thích hợp với cây công nghiệp

44.268

Phân bố rộng rãi ở nhiều vùng thuộc các huyện vùng núi

Fp

Đất vàng nhạt trên phù sa cổ

Thích hợp với cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày

16.696

Phân bố rộng rãi ở nhiều vùng thuộc Nông Cống, Tĩnh Gia, Như Thanh

Fq

Đất vàng nhạt trên đá cát Thích hợp với cây lâm nghiệp

89.893

Phân bố rộng rãi ở nhiều vùng cát kết cổ thuộc Nông Cống, Tĩnh Gia, Như Thanh

Fj

Đất đỏ vàng trên đá biến chất

Thích hợp với cây lâm nghiệp, cây công nghiệp đặc thù

1.525

Phân bố ở huyện Như Xuân

Rr

Đất đen

Thích hợp với cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày

3.830

Tập trung nhiều ở vùng núi Nưa

Li,Ly

Đất lầy, than bùn

Thích hợp cho việc phát triển đồng cỏ

10.959

Phân bố trên các địa hình trũng khó thoát nước ở các huyện trung du miền núi Như Xuân, Bá Thước, Quan Hóa, Thạch Thành, Lang Chánh, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy

Ba

Đất bạc màu phát triển trên đá sản phẩm dộc tụ và trên phù sa cổ

Thích hợp với cây họ đậu và lúa một vụ

26.538

Phân bố trên các địa hình bằng phẳng có nguồn gốc đồng bằng cổ có độ cao tuyệt đối cao hơn các đồng bằng phù sa

P

Đất phù sa: Bao gồm loại được bồi hàng năm và loại không được bồi hàng năm, đất phù sa glây và phù sa úng nước vào mùa hè

Thích hợp cho cây lúa

141.275

Tập trung chủ yếu ở đồng bằng, một phần ở ven biển và trung du miền núi thuộc các huyện: Triệu Sơn, Thọ Xuân, Nông Cống, Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hóa, Quảng Xương, Hà Trung, Nga Sơn, Cẩm Thủy

M

Đất mặn

Thích hợp trồng cói, nuôi thủy sản và làm muối

12.004

Tập trung ở 6 huyện, thị xã ven biển và khoảng 650ha ở huyện Nông Cống

Cc

Đất cát bãi, cát biển (trồng rau quả, cây công nghiệp ngắn ngày)

Thích hợp với cây công nghiệp ngắn ngày, rau màu

15.961

Tập trung ở 6 huyện, thị xã ven biển

Tổng

1.112.033

Nguồn: Theo số liệu điều tra của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,

              Địa chí Thanh Hóa, tập 1 và có điều chỉnh với số liệu chung

2. Tài nguyên khí hậu

            Do sự tác động của các nhân tố: vĩ độ địa lý, quy mô lãnh thổ, vị trí trong hệ thống hoàn lưu gió mùa trong á địa ô gió mùa Trung – Ấn, hướng sơn văn, độ cao và vịnh Bắc Bộ mà Thanh Hoá có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm với mùa hè nóng, mưa nhiều có gió Tây khô nóng; mùa đông lạnh ít mưa có sương giá, sương muối lại có gió mùa Đông Bắc theo xu hướng giảm dần từ biển vào đất liền, từ Bắc xuống Nam. Đôi khi có hiện tượng dông, sương mù, sương muối làm ảnh hưởng không nhỏ tới cây trồng nông nghiệp.

            Nhiệt độ không khí trung bình năm là 22 – 230C, song phân hóa rất khác nhau theo từng tháng và giữa các vùng. Chênh lệch về cực trị của nhiệt độ trong năm cũng rất lớn: mùa hè, nhiệt độ tối cao có thể đạt tới 410C, song về mùa đông, nhiệt độ có thể hạ thấp xuống dưới 20C ở vùng núi, kèm theo sương giá, sương muối.

            Lượng mưa trung bình phổ biến là 1.700mm, song có một số vùng đồi núi, lượng mưa lại rất cao. Ở vùng đồi núi, tốc độ gió tương đối đều trong năm, dao động trung bình từ 1 – 2m/s. Còn ở vùng đồng bằng ven biển, tốc độ gió có thể có sự chênh lệch ở các huyện ven biển vào mùa bão lụt từ tháng 6 đến tháng 11. Do sự chi phối của địa hình và những tương tác với các vùng lân cận mà Thanh Hoá có sự phân dị về khí hậu theo vùng, với 3 vùng khí hậu đặc trưng:

            – Vùng đồng bằng, ven biển: có nền nhiệt độ cao, mùa đông không lạnh lắm, ít xảy ra sương muối, mùa hè nóng vừa phải. Mưa ở mức trung bình và có xu hướng tăng dần từ phía Bắc vào phía Nam. Lượng mưa lớn nhất vào tháng 9 và ít nhất vào các tháng 2, 3. Mưa phùn vào các tháng cuối mùa lạnh (1, 2 và 3), đôi khi kéo dài hàng tuần lễ. Có hai thời kỳ khô ngắn và không ổn định vào đầu hè (tháng 5 và 6) và vào các tháng 10, 11. Từ tháng 7 đến tháng 11, có nhiều cơn bão xuất hiện và có thể gây ảnh hưởng lớn đến các huyện ven biển của tỉnh. Thiên tai thường xảy ra là bão, nước dâng trong bão, mưa lớn gây úng, lụt, lũ tập trung vào tháng 9 hàng năm. Hạn và rét đậm kéo dài vào thời gian từ tháng 12 đến tháng 2. Ngoài ra, lốc, vòi rồng, mưa đá có thể xảy ra ở vùng này với tần suất thấp.

            – Vùng trung du: có nhiệt độ cao vừa phải, mùa đông tương đối lạnh, có sương muối nhưng ít. Mùa hè nóng vừa phải, khu vực phía Nam nóng hơn do ảnh hưởng của gió tây khô nóng. Mưa khá nhiều, đặc biệt ở khu vực Như Xuân, Như Thanh, Lang Chánh, Thường Xuân (trên 2.000 mm/năm), Hồi Xuân (1.870mm/năm). Độ ẩm lớn, gió không mạnh lắm. Thiên tai chủ yếu là mưa lớn, gió tây khô nóng, rét đậm kéo dài, lũ đột ngột, kể cả lũ bùn đá, lũ ống và lũ quét. Lượng mưa cao, có khả năng gây lũ ống, lũ quét vào tháng 7 – tháng 8.

            – Vùng đồi núi cao: bao gồm các huyện Quan Hoá, Quan Sơn, Mường Lát, phần Tây Bá Thước, Yên Khương của Lang Chánh, Yên Nhân, Bát Mọt, Xuân Khao của Thường Xuân. Nền nhiệt độ nói chung thấp, mùa đông khá rét, nhiệt độ thấp nhất có thể dưới 00C, sương muối nhiều và một số nơi có sương giá với tần suất 1 ngày/1 năm. Khi có sương giá, sương muối làm cho một số cây ăn quả có thể bị chết hàng loạt. Vào mùa hè, lũ có thể xuất hiện vào thời gian tháng 7 – 8.

            Mùa hè dịu mát, ảnh hưởng của gió tây khô nóng không lớn, biên độ nhiệt năm nhỏ, lượng mưa, số ngày mưa, mùa mưa khác biệt khá nhiều theo các tiểu vùng. Mùa đông ít mưa. Độ ẩm không lớn lắm (trừ khu vực cao trên 800m mới có độ ẩm lớn và mây mù nhiều). Gió nói chung yếu, tốc độ trung bình từ 1,3 – 2m/s.

            Lượng mưa lớn, nhiệt độ cao, ánh sáng dồi dào là các điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông lâm ngư nghiệp. Với chế độ nhiệt ẩm như vậy, đồng thời do sự phân dị phức tạp về địa hình mà Thanh Hoá có nhiều vùng có chế độ vi khí hậu khác nhau, tạo điều kiện phát triển các cây trồng nhiệt đới và cả các cây trồng á nhiệt đới, tạo nên sự đa dạng của hệ thống cây trồng. Tuy nhiên, cũng như các tỉnh vùng núi phía Bắc có mùa đông lạnh, khí hậu vùng núi Thanh Hoá cũng thường xuất hiện các hiện tượng thời tiết đặc biệt như sương muối, sương giá vào mùa đông, bão, lụt, áp thấp nhiệt đới về mùa mưa và hạn hán về mùa khô, ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nông nghiệp và đời sống con người. Vì vậy, việc lựa chọn cây trồng thích hợp với từng tiểu vùng khí hậu là điều cần thiết.

3. Tài nguyên nước và mạng lưới sông ngòi

3.1. Tài nguyên nước

            Tài nguyên nước của Thanh Hoá khá phong phú. Tổng lượng nước mưa rơi xuống lãnh thổ hàng năm là 19 tỷ mét khối, lượng bốc hơi trung bình là 9 tỷ mét khối, còn lại 9,7 tỷ mét khối nước sinh ra dòng chảy mặt và 0,3 tỷ mét khối sinh ra dòng chảy ngầm. Hàng năm hệ thống sông đổ ra biển 20 tỷ mét khối nước, trong đó có 9,7 tỷ mét khối nước sinh ra trên lãnh thổ Thanh Hoá còn lại là nước sinh ra ở Tây Bắc và Lào.

            Modul dòng chảy mặt trung bình 20,4 – 38 lít/s/km2. Vùng đồng bằng biến thiên từ 20 – 30 lít/s/km2, ở miền đồi núi trên 30 lít/s/km2, lớn nhất là tại lưu vực sông Âm: 38 lít/s/km2. Chất lượng nước mặt khá tốt, trừ vùng hạ lưu vào mùa kiệt do chịu ảnh hưởng của thuỷ triều.

            Modul dòng chảy ngầm biến thiên từ 2 lít/s/km2 đến 20 lít/s/km2. Khu vực trung lưu sông Mã có modul dòng ngầm trên 20 lít/s/km2. Nhìn chung, chất lượng nước ngầm tốt, trừ một số khu vực ngoại vi thành phố Thanh Hoá, thị xã Sầm Sơn, nước ở tầng mặt đã bị ô nhiễm. Các khu vực cửa sông, ven biển nước ngầm bị nhiễm mặn.

            – Nước ngầm: Ở Thanh Hoá, nước ngầm khá phong phú cả về trữ lượng và chủng loại bởi chúng xuất hiện ở đầy đủ các loại đất đá: trầm tích, biến chất, macma và phun trào. Thanh Hoá có các loại hình nước dưới đất như sau:

            * Nước lỗ hổng: Tồn tại trong các thành vách núi, được tạo bởi nguồn gốc trầm tích biển, sông biển tuổi holoxen (tầng QIV), phân bố ở các địa hình đồng bằng bằng phẳng, độ cao tuyệt đối từ 7 đến 15 mét, nằm ở độ sâu từ 0 đến 35 mét. Ngoài ra, còn có nước lỗ hổng trong các thành tạo trầm tích có nguồn gốc sông lũ tuổi pleixtoxen (tầng QI-III), tầng này nằm ở dưới hoặc chỉ lộ ra ở một số vùng chân núi. Cả hai tầng chứa nước này đều có khả năng chứa nước kém, với tỷ lưu lượng từ 0,2 đến 11 lít/s.m, có quan hệ thuỷ lực với nước mặt. Độ tổng khoáng hoá dao động từ 0,1-5g/lít, nhiều nơi, tầng nước này bị nhiễm mặn. Vì vậy, khả năng khai thác chỉ đáp ứng các nhu cầu nhỏ trong sinh hoạt và sản xuất.

            * Nước khe nứt: Tồn tại trong các đá cứng nứt nẻ có thành phần khác nhau, phân bố ở các khu vực đồi núi. Nước có chất lượng tốt với độ tổng khoáng hoá < 1mg/lít, song phân bố rất phức tạp phụ thuộc vào cấu trúc địa chất của từng vùng. Hiện nay, việc khảo sát thăm dò các khu vực này còn rất hạn chế.

3.2. Mạng lưới sông suối

            – Các hệ thống sông chính: Thanh Hoá có 5 hệ thống sông chính là sông Hoạt, sông Mã, sông Yên, sông Lạch Bạng và sông Chàng.

            + Sông Hoạt: Sông bắt nguồn từ núi Hang Cửa, vùng Yên Thịnh (Hà Trung) có diện tích lưu vực tính đến cầu Chính Đại (cách cửa sông 13km) là 250km2. Sông dài 55km, chảy qua huyện Hà Trung, thị xã Bỉm Sơn và men theo tạo địa giới giữa huyện Nga Sơn và huyện Kim Sơn (Ninh Bình). Do vị trí của sông nằm trong khu vực ít mưa (dưới 1.500mm), lại chảy qua nhiều vùng đá vôi nên dòng chảy mùa kiệt rất nghèo nàn và bị ảnh hưởng mạnh của thuỷ triều. Vào mùa mưa, do địa hình lòng chảo nên sông tiêu nước chậm và thường xuyên gây úng lũ ở Hà Trung (Hà Bắc, Hà Yên, Hà Giang, Hà Vân) và Nga Sơn.

            + Sông Mã: Đây là hệ thống sông lớn nhất tỉnh. Dòng chính dài 528km, bắt nguồn từ độ cao 800 – 1.000m ở vùng Điện Biên Phủ, sau đó chảy qua Lào (118km) và vào Thanh Hoá ở phía Bắc bản Sóp Sim (Mường Lát). Chiều dài sông Mã ở địa phận Việt Nam là 410km, riêng tỉnh Thanh Hoá 242km. Toàn bộ diện tích lưu vực là 28.106km2, trong đó phần bên nước bạn Lào là 7.913km2, phần Việt Nam là 20.193km2, riêng Thanh Hoá gần 9.000km2. Sông Mã có 89 phụ lưu, các phụ lưu chính trên đất Thanh Hoá gồm suối Sim (40km), suối Quanh (41km), suối Xia (22,5km), sông Luồng (102km), sông Lò (74,5km), Hón Nủa (25km), sông Bưởi (130km), sông Cầu Chày (87,5km), sông Chu (325km). Hệ thống sông Mã có thể cho công suất lý thuyết là 1.890.020Kw, với sản lượng điện là 12,07 tỷ Kw/h. Bình quân trên 1km chiều dài, sông Mã cho 3.578Kw. Hiện đã xây dựng trên hệ thống sông Mã nhà máy thuỷ điện Cửa Đạt có công suất lắp máy 140Mw.

            + Sông Yên. Bắt nguồn từ xã Bình Lương (Như Xuân), ở độ cao 100 – 125m, chảy xuống đồng bằng Nông Cống, Quảng Xương và đổ ra biển ở lạch Ghép. Sông dài 94,2km, trong đó gần 50km ở miền đồi núi. Diện tích lưu vực là 1.996km2. Sông Yên có 4 sông nhánh là sông Nhơm (66,9km), sông Hoàng (81km), sông Lý (27,5km) và sông Thị Long (50,4km).

            + Sông Lạch Bạng bắt nguồn từ vùng núi Huôn, xã Phú Lâm (Tĩnh Gia), ở độ cao 100m, chảy qua vùng núi Tĩnh Gia, tới Khoa Trường bắt đầu xuống đồng bằng và đổ ra biển ở cửa Bạng. Sông dài 34,5km, trong đó 18km ở vùng núi. Diện tích lưu vực là 236km2.

            + Sông Chàng. Đây là con sông duy nhất ở tỉnh đổ ra tỉnh khác (Nghệ An). Sông Chàng là một nhánh của sông Hiếu (Nghệ An). Diện tích lưu vực sông ở đoạn Thanh Hoá khoảng 250km2.

4. Tài nguyên sinh vật

4.1. Thực vật: Do nằm ở vị trí trung gian giữa các hệ thực vật Himalaya, Hoa Nam, Ấn Độ – Myanmar, Malaysia – Indonesia và sự tác động của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa trên nền thổ nhưỡng và địa hình khác nhau, Thanh Hoá có hệ thực vật rất phong phú. Rừng Thanh Hoá tập trung một số loại thảm thực vật tiêu biểu sau:

            – Rừng nhiệt đới ở đai thấp: Các loại rừng này phân bố ở độ cao thường dưới 500m và chiếm diện tích lớn nhất tỉnh. Thành phần loài trong thảm thực vật rất phong phú, các loại cây gỗ chiếm ưu thế là các cây thuộc họ đậu, họ dầu, họ xoan, họ bồ hòn, v.v.. Ở đai thấp, hầu như không có cây hạt trần.

            – Rừng cận nhiệt đới trên núi: Loại rừng phân bố ở độ cao từ 500m tới 1.600m (còn gọi là rừng nhiệt đới trên núi thấp).

            – Rừng trồng: Rừng trồng ở Thanh Hoá đã được chú trọng phát triển từ lâu.

            Rừng Thanh Hoá chủ yếu là rừng lá rộng, thường xanh, có hệ thực vật phong phú, đa dạng về họ, loài… Gỗ quý hiếm có lát, pơ mu, trầm hương. Gỗ nhóm II có sa mu, lim xanh, táu, sến. Gỗ nhóm III, IV có vàng tâm, dổi, de, chò chỉ… Các loại thuộc họ tre, nứa có luồng, nứa, vầu, giang, bương, tre. Ngoài ra, còn có mây, song, dược liệu, cánh kiến đỏ…

            – Hệ thống rừng đặc dụng: Theo tiêu chuẩn quốc gia, Thanh Hóa có một số rừng đặc dụng như: Vườn quốc gia Bến En (rộng 16.000ha ở các huyện Như Xuân, Như Thanh), vườn quốc gia Cúc Phương (phần thuộc tỉnh Thanh Hóa gồm các xã Thạch Lâm và Thành Mỹ, huyện Thạch Thành), Khu bảo tồn cây gỗ sến rộng 300ha ở xã Tam Quy, huyện Hà Trung. Khu bảo tồn Pù Luông, Xuân Nha. Ngoài ra, có các khu bảo tồn gen gắn với di tích lịch sử – văn hóa như: khu Lam Kinh (bảo tồn rừng Lim), khu đền Bà Triệu với rừng thông nhựa (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc), khu vườn rừng Hàm Rồng, khu vườn thực vật thị xã Sầm Sơn.

4.2. Động vật: Những kết quả điều tra cho thấy ở Thanh Hoá hệ động vật rừng rất phong phú và đa dạng, bao gồm cả động vật trên cạn lẫn động vật dưới nước, cả động vật bản địa lẫn động vật di cư đến, cả động vật tự nhiên lẫn động vật do con người tạo ra, v.v.. Thanh Hoá có một số dạng quần cư động vật chính như: quần cư động vật đồng ruộng đồng bằng và đồi thấp; quần cư động vật ở rừng tre, nứa, vầu, giang; quần cư động vật ở rừng cây bụi, trảng cỏ; quần cư động vật ở rừng gỗ và trảng cây; quần cư động vật nước ngọt…

            Thanh Hoá có nhiều loài động vật đã được ghi vào sách Đỏ, bao gồm:

            – Các loài đang bị tiêu diệt như: nhóm thú voọc mông trắng, voọc vá, voọc đen tuyền, vượn đen bạc má, gấu đen, gấu ngựa, báo mai hoa, hổ, voi, hươu sao, bò tót, sơn dương, trâu rừng; nhóm chim có trĩ, gà lôi; nhóm bò sát, lưỡng cư có rắn hổ mang chúa.

            – Các loài sắp bị tiêu diệt: nhóm thú cu li nhỏ, khỉ mặt đỏ, khỉ mốc, khỉ đuôi lợn, voọc xám, báo lửa, báo gấm, cheo cheo nam dương, tê tê, sóc bay; về chim có cò chìa, hồng hoàng; về bò sát lưỡng cư có kỳ đà nước, thằn lằn, rắn hổ trâu, rùa híp, rùa núi vàng, giải. Nhóm động vật không xương sống có trai cóc hình tai, cà cuống; về thú có cầy mực, dơi thuỳ frit, sóc bay lông tai; về chim có bồ nông chân xám, choắt chân vàng lớn, mòng biển mỏ đen; về động vật không xương sống có cua Kim Bôi, cua Cúc Phương. Một số loài khác như tắc kè, rắn cạp nong, rắn hổ mang cũng có nhiều song cũng đang bị săn bắt quá mức nên số lượng suy giảm nhanh chóng…

5. Tài nguyên khoáng sản

Tài nguyên Khoáng sản Thanh Hóa

            Thanh Hoá là một trong số ít các tỉnh ở nước ta có nguồn tài nguyên khoáng sản rất phong phú và đa dạng, có những tiền đề địa chất khá thuận lợi cho các quá trình tạo khoáng. Kết quả điều tra đến nay cũng đã cho thấy lãnh thổ Thanh Hoá có nhiều loại hình khoáng sản khác nhau, bao gồm:

            – Kim loại màu và kim loại hiếm: Đã phát hiện thấy 7 mỏ và điểm quặng chì – kẽm, trong đó mỏ Quan Sơn (Tân Trường, huyện Tĩnh Gia) trữ lượng ước tính 121.000 tấn; antimoan có 6 mỏ và điểm quặng phân bố ở Bá Thước, Cẩm Thuỷ, Quan Hoá với trữ lượng phát hiện được là không lớn, song cần điều tra thêm; niken – coban có lẫn trong quặng crômit Cổ Định, trữ lượng khoảng 137.840 tấn niken và 27.570 tấn coban; quặng đồng có ở Lương Sơn (Thường Xuân), nhưng trữ lượng nhỏ; đồng, thiếc và thiếc – vonfram có trữ lượng nhỏ và phân bố ở Thường Xuân (các mỏ Bù Me, làng Tôm và đồi Tròn). Ngoài ra, còn các quặng molipđen, thuỷ ngân ở rải rác nhiều nơi nhưng trữ lượng nhỏ. Riêng quặng vàng, đã phát hiện thấy nhiều mỏ và điểm khoáng sản vàng ở nhiều nơi thuộc Như Xuân, Thường Xuân, Ngọc Lặc, Quan Hoá, Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Bá Thước. Đó là các loại khoáng hoá vàng hoặc vàng gốc thuộc thành hệ thạch anh – vàng – sunfua, đa kim, tồn tại trong các đới dập vỡ, thành mạch riêng của các đá phun trào axit hoặc trong đá vôi. Nhiều điểm mỏ đã được điều tra kỹ như mỏ Ban Công ở Bá Thước trữ lượng cấp C1 đạt 321kg, mỏ Cẩm Quỳ (Cẩm Thủy) trữ lượng cấp C1 đạt 263kg, mỏ Làng Bẹt (Cẩm Thuỷ) trữ lượng cấp C1 đạt 150kg. Ngoài  ra, còn rất nhiều mỏ khác như vàng gốc Cẩm Tân (Cẩm Thủy), vàng gốc làng Nèo, Ban Công (Bá Thước), Eo Khanh, Thạch Cẩm (Thạch Thành), Xuân Chính, Xuân Thắng (Thường Xuân), Thanh Quân (Như Xuân), vàng sa khoáng còn có ở nhiều nơi thuộc huyện Như Xuân, Thường Xuân, Bá Thước, Thạch Thành, Cẩm Thủy.

            – Nguyên liệu hoá chất – phân bón: Có secpentin phân bố ở khu vực núi Nưa, là nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất phân lân, với trữ lượng 15 triệu tấn và hiện đang khai thác tại bãi Áng (Nông Cống); quặng photphorit có ở Cao Thịnh (Ngọc Lặc) có trữ lượng 74.698 tấn, Hàm Rồng (thành phố Thanh Hoá) có trữ lượng 24.500 tấn, Cao Thịnh – Yên Lâm có trữ lượng 125.000 tấn; quặng đôlômit ở núi Long (thành phố Thanh Hoá) có trữ lượng 4,7 triệu tấn và đồng Vựa (Nga An, huyện Nga Sơn), có trữ lượng 1 triệu tấn. Ngoài ra, photphorit còn có ở nhiều nơi khác trong tỉnh như ở huyện Thường Xuân, Thọ Xuân, Cẩm Thuỷ, Hà Trung. Đôlômit cũng rất phong phú ở Ngọc Long (thành phố Thanh Hoá), Nhân Sơn (huyện Nga Sơn), đây là nguyên liệu trợ dụng cho sản xuất thép, thuỷ tinh ở lò cao. Pyrit cũng có ở nhiều nơi trong tỉnh, là nguyên liệu tốt cho việc sản xuất một số loại hoá chất, hoặc barit là vật liệu cần thiết cho một số ngành sản xuất (như khoan dầu khí, chế tạo cao su…) song trữ lượng còn chưa được đánh giá cụ thể.

            – Nguyên liệu cho sản xuất sành, sứ, thuỷ tinh và vật liệu xây dựng: Có cao lanh với tổng trữ lượng ước tính 5 triệu tấn và phân bố ở bến Đìn, làng Cày (Thường Xuân), làng En (Lang Chánh), Kỳ Tân (Bá Thước), Quyền Cây (Bỉm Sơn); sét trắng có trữ lượng nhỏ và phân bố ở núi Bợm (Tĩnh Gia), Tập Cát (Minh Thọ, Nông Cống); quặng macsalit ở Đồng Khang (Triệu Sơn) khoảng 4,3 triệu tấn, Các Sơn (Tĩnh Gia), Mỹ Tân (Ngọc Lặc); quặng fenspat có ở núi Trường Lệ (Sầm Sơn) và núi Hoằng Trường (Hoằng Hoá); cát thuỷ tinh có trữ lượng hàng chục triệu tấn và phân bố ở Tĩnh Gia; đá, cát, sỏi, sét xây dựng có trữ lượng rất lớn và phân bố khá rộng rãi ở nhiều vùng; quặng puzơlan ở Thăng Long (Nông Cống), trữ lượng 4,7 triệu tấn; cát kết chịu lửa ở núi Bợm (Tĩnh Gia); đá hoa có ở nhiều nơi, đáng chú ý là đá hoa khe Cang, Na Mèo (huyện Quan Sơn), Trung Sơn (huyện Quan Hoá), Định Thành (Yên Định), Yên Duyên (Bỉm Sơn), núi Vức (Đông Sơn); đá vôi làm xi măng trữ lượng trên 370 triệu tấn, chất lượng tốt và phân bố khá rộng rãi.

             - Nhiên liệu: Than bùn có ở tất cả các huyện với tổng trữ lượng 3 triệu tấn; than đá có trữ lượng nhỏ và phân bố ở Cẩm Yên, Cẩm Ngọc, Cẩm Phú, Phúc Mỹ (Cẩm Thuỷ), Tuy Hoá (Đông Sơn), Hà Long (Hà Trung), v.v..

            Ngoài ra, Thanh Hoá còn một số loại khoáng sản khác: thạch anh tinh thể ở Thường Xuân; đá quý như topa, canxedoan, berin ở Thường Xuân; graphit ở Quan Hoá; nước khoáng ở một số điểm thuộc các huyện Thường Xuân, Bá Thước, Lang Chánh và Quan Hoá.

6. Tài nguyên biển và ven biển

Bản đồ tài nguyên biển Thanh Hóa

            Vùng biển Thanh Hoá có diện tích 17.000 – 18.000km2, gấp 1,6 lần diện tích đất liền. Đường bờ biển có dạng cánh cung dài 102km. Bờ biển tương đối phẳng, nhưng bị chia cắt bởi 7 cửa lạch. Các cửa sông đều là những khu vực tự nhiên rất nhạy cảm và có năng suất sinh học cao. Từ Nam Sầm Sơn đến Quảng Xương có inmenhit, trữ lượng 73.500 tấn. Đây là loại nguyên liệu quan trọng để sản xuất que hàn, men sứ. Bờ biển Tĩnh Gia có trữ lượng lớn cát trắng để sản xuất thuỷ tinh. Các bãi triều rộng ở Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương… là nơi nuôi trồng thuỷ sản. Ven bờ cũng có nhiều đồng muối ở Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Xương, Tĩnh Gia.

            Ven biển Thanh Hoá có đảo hòn Nẹ cao, đảo hòn Mê, cụm đảo Nghi Sơn và hàng loạt đảo nhỏ như: hòn Đót, hòn Miệng, hòn Vạt, hòn Góc, v.v.. Diện tích đảo của tỉnh khoảng 800ha. Về mặt tài nguyên và môi trường, có thể xây dựng các khu bảo tồn biển xung quanh các đảo nhằm bảo vệ sự đa dạng sinh học biển đồng thời cũng là cơ sở cho hoạt động du lịch. Với vị trí của mình các đảo này có vai trò tiền tiêu trong việc bảo vệ đất liền song các đảo này cũng chính là điểm tựa để phát triển kinh tế hướng ra biển.

            Dải ven bờ biển Thanh Hoá có diện tích bãi triều trên 8.000ha (chưa tính bãi triều 2 huyện Nga Sơn và Hậu Lộc mỗi năm bồi tăng thêm từ 10 – 50m) là nguồn tài nguyên lớn về nuôi trồng thuỷ sản nước lợ như tôm sú, tôm he, cua và rong câu… Diện tích nước mặn khoảng trên 5.000ha, phân bố chủ yếu ở vùng đảo Mê, Biện Sơn có thể nuôi cá song, cá cam, trai ngọc, tôm hùm dưới hình thức nuôi lồng bè. Ngoài ra với hàng ngàn hecta vùng nước mặn ven bờ, thuận lợi nuôi nhuyễn thể hai mảnh vỏ như ngao, sò, ngán… Đặc biệt là với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, khu kinh tế Nghi Sơn đã và đang được xây dựng (theo Quyết định 102/2006 của Thủ tướng Chính phủ) với nhiều hạng mục công trình lớn như: cảng nước sâu, nhà máy xi măng, sân bay… sẽ mở ra nhiều hướng phát triển mới cho dải ven biển nói riêng cũng như cho cả tỉnh nói chung./.

(Ban Biên tập - Sưu tầm và biên soạn)

Cổng Thông Tin Du Lịch Tỉnh Lào Cai

(12/9/2018) Những lợi ích của việc đi du lịch theo Tour

Đối với những người yêu thích du lịch, yêu thích việc khám phá những vùng đất mới thì việc tìm kiếm một phương thức tiện lợi, hiệu quả và giảm thiểu chi phí là vô cùng quan trọng. Hình thức đi du lịch theo tour sẽ đáp ứng được những yêu cầu đó của bạn.

1. Bạn sẽ có chuyến đi được tổ chức một cách chuyên nghiệp Khi bạn đi du lịch một mình bạn sẽ phải tự mình tìm kiếm các dịch vụ cần thiết cho chuyến đi của mình như ăn, uống, giải trí… và bạn phải tự mình tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi, những thắc mắc của mình trong chuyến đi đó. Những chương trình du lịch theo tour sẽ mang lại cho bạn những trải nghiệm mới lạ, độc đáo và tiết kiệm mọi chi phí phát sinh vì hướng dẫn viên sẽ là người giúp bạn tổ chức mọi hoạt động với các dịch vụ hợp lý, hiệu quả và luôn sẵn sàng giải thích, trả lời những câu hỏi hay thắc mắc của bạn trong hành trình đó. Đây là một trong những lợi ích tuyệt vời nhất mà bạn sẽ có được, đặc biệt khi bạn chọn cho mình chuyến đi ở một đât nước khác với một ngôn ngữ mới.2. Bạn sẽ có ngay những người bạn mới Bạn có cơ hội được gặp gỡ với nhiều người ở mọi miền tổ quốc hoặc nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, cũng nhau tham gia trong môi trường du lịch có cùng ý tưởng khám phá và mong muốn được trải nghiệm nên việc kết bạn hay tiếp cận nhau trở nên dễ dàng hơn.

3. Được trải nghiệm những giá trị tốt nhất của điểm đến. Cho dù bạn sử dụng dịch vụ của bất kỳ công ty nào thì họ cũng mất nhiều thời gian nghiên cứu, xây dựng các chương trình du lịch hợp lý, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng khách. Điều đặc biệt các công ty du lịch lữ hành luôn mong muốn được làm thỏa mãn nhu cầu của các bạn là được khám phá, được trải nghiệm, được hưởng các dịch vụ du lịch chất lượng tại điểm đến.4. Một chuyến đi an toàn Trong các chương trình tour của bạn thì người hướng dẫn viên đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề hay các sự cố phát sinh trong chuyến đi và họ là những người được đào tạo và có những kinh nghiệm cần thiết trong việc xử lý các tình huống phát sinh nếu có.5. Một cách tuyệt vời để tổ chức các chương trình du lịch nhóm Nếu bạn muốn đi du lịch với gia đình hay với vài người bạn của mình mà gặp bất lợi cho việc tổ chức chuyến du lịch hoặc các chương trình tham quan thì đây là sự lựa chọn thông minh và giảm chi phí cho chuyến đi của mình, mà bạn vẫn được sử dụng dịch vụ tốt nhất, thời gian phù hợp nhất cho những trải nghiệm và tận hưởng tuyệt vời tại điểm đến.6. Mang lại sự yên tâm cho gia đình và người thân Với sự lo lắng của gia đình khi bạn đi ra ngoài thế giới rộng lớn một mình, thì việc tham gia các tour du lịch sẽ mang lại cảm giác an toàn với chất lượng và đảm bảo được liên lạc thường xuyên về sự an toàn của bạn cho dù bạn ở bất kỳ nơi nào trên thế giới.7. Tiết kiệm Việc tham gia các tour du lịch bạn luôn được hưởng dịch vụ ưu đãi giảm giá dành cho các công ty lữ hành như: Chi phí tham quan hay các dịch vụ ăn, nghỉ, vì các đơn vị tổ chức tour luôn được bên cung cấp dịch vụ du lịch ưu tiên giảm giá, khuyến mại theo chương trình.8. Được xem những thứ độc đáo và đặc biệt Trên thực tế bạn sẽ không có cơ hội tiếp cận những địa điểm nhạy cảm và độc đáo nếu như bạn đi du lịch một mình. Việc đi du lịch theo tour sẽ mang lại những cơ hội được trải nghiệm sự độc đáo, những chương trình đặc biệt nơi đến, giao lưu khám phá bản sắc văn hóa với người địa phương, những dân tộc thiểu số mà các đơn vị lữ hành đã lựa chọn tại điểm đến cho du khách.9. Có người giúp bạn để có những bức ảnh tuyệt vời Bạn sẽ có được những bức ảnh ưng ý khi có sự giúp đỡ cần thiết của những người trong nhóm. Hãy thử và tận hưởng những điều tuyệt vời của việc đi du lịch theo tour nhé!

Trang Thông Tin Điện Tử Xã Trung Thành Huyện Quan Hóa

 

KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, LỊCH SỬ,

KINH TẾ – XÃ HỘI, VĂN HÓA

1.     Đặc điểm tự nhiên

1.1 Khái quát đặc điểm địa hình của xã.  Trung Thành nằm về thượng nguồn sông Mã, bề mặt địa hình dốc mang nét đặc trưng của vùng núi tây bắc, do địa hình đồi núi nên diện tích đất bằng rất ít, chủ yếu là đất dốc từ 300 trở lên. Hướng núi ở Trung Thành thấp dần từ tây sang đông, độ dốc trung bình từ 250 – 350 nhiều nơi có độ dốc trên 450 đây là nguyên nhân gây nên hiện tượng mưa lớn kéo dài trong nhiều giờ, nhiều ngày từ 100mm trở lên xảy ra lũ quét, lũ ống, sạt lở, đá lăn hai bên bờ sông, suối.

 Đặc điểm khí hậu: Khí hậu xã Trung Thành mang đặc trưng của khí hậu vùng núi cao, chia làm 2 mùa rõ rệt. Mùa hè nóng, ẩm, mưa nhiều từ tháng 7 đến tháng 10 và chịu ảnh hưởng của gió tây nam (gió Lào) khô nóng từ tháng 4 đến tháng 6. Mùa đông khô, lạnh, ít mưa. Lượng mưa trung bình năm là 1600 – 1.800mm; nhiệt độ bình quân năm là 24o – 25oC, biên độ nhiệt độ ngày đêm giao động từ 4 – 12oC tùy theo mùa; độ ẩm không khí trung bình năm từ 80%. Nhìn chung khí hậu của xã Trung Thành tương đối thuận lợi cho phát triển sản xuất nông – lâm nghiệp và chăn nuôi nhất là nghề rừng và chăn nuôi đại gia súc.

Về giao thông đường bộ: Trước năm 1945, ở Trung Thành chưa có đường lớn, chủ yếu là đường mòn, việc đi lại bằng ngựa, gùi hàng đi bộ, hoặc vận chuyển bằng đường khe suối khi mùa mưa đến gặp rất nhiều khó khăn. Ngày nay, giao thông của Trung Thành do địa hình dốc và chia cắt phức tạp. Các thôn bản ở phân tán xa nhau, các tuyến đường dài và qua nhiều khe suối, xã lại bị ngăn cách bởi sông Mã, vì vậy giao thông đi lại rất khó khăn. Hiện, tính đến (tháng 3 – 2017) ô tô chưa đến được trung tâm xã do không qua được cầu treo.

Tổng chiều dài của cả hệ thống giao thông bao gồm đường trục xã; đường trục thôn, xóm; đường ngõ, xóm và đường trục chính nội đồng dài 81,8 km, trong đó được nhựa hóa 6,8km còn lại 75km hiện là đường cấp phối, đường đất nhỏ hẹp, thường bị lầy lội vào mùa mưa. Cụ thể như sau:

+ Tổng số đường trục xã, liên xã: dài 19,8km, trong đó nhựa hoá 6,8km đạt 34,34%. Còn lại 13km là đường đất.

+ Đường trục thôn, bản: có tổng chiều dài 13 km, hoàn toàn là đường cấp phối, đường đất.

+ Đường ngõ xóm: có tổng chiều dài 12km, hoàn toàn là đường đất, thường lầy lội vào mùa mưa.

+ Đường trục chính nội đồng, đường sản xuất có tổng chiều dài 37km, hoàn toàn là đường đất, chưa được đầu tư cứng hóa.

Ngoài ra hệ thống giao thông còn bị chia cắt bởi các con suối lớn nhỏ, hiện nhân dân đang làm cầu cống tạm bằng tre luồng, giao thông đi lại khó khăn, nhất là vào mùa mưa lũ. Rất cần đầu tư xây dựng kiên cố.

Hiện xã Trung Thành có một cầu treo qua sông Mã, đây là cây cầu huyết mạch nối xã với các xã khác và đi về trung tâm huyện. Cầu treo chỉ đáp ứng cho người đi bộ và phương tiện xe nhỏ, thô sơ, xe máy.

Về thuỷ lợi:  Do địa hình dốc, hệ thống thủy lợi chủ yếu là tự chảy, nên trên địa bàn xã không có trạm bơm. Xã có 3 đập mương được xây dựng kiên cố, cung cấp nước tưới cho 12ha ruộng lúa. Diện tích ruộng còn lại được cung cấp nước từ các đập, phai tạm được đắp bằng đất đá, đá vào mùa mưa lũ thường bị hư hỏng, cuốn trôi, gây thiệt hại đáng kể cho nhân dân và ảnh hưởng đến sản xuất. Vì vậy, rất cần xây dựng trạm bơm để cung cấp nước tưới cho sản xuất. Tổng chiều dài kênh mương hiện có: 21,8km, trong đó đã kiên cố hoá: 1,5 km đạt 6,9% còn lại 20,3km cần được tiếp tục kiên cố hoá.

Trung Thành là xã đặc biệt khó khăn thuộc huyện Quan Hóa, là một trong 62 huyện nghèo nhất cả nước, hiện đang được hưởng các chính sách hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết số 30a của Chính Phủ. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo đói ở Trung Thành. Trong đó các nguyên nhân cơ bản theo đánh giá chủ quan của xã là:

+ Xuất phát điểm của nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, kết cấu hạ tầng thấp kém.

+ Địa hình đồi núi dốc, chia cắt phức tạp, hàng năm thường bị lũ, lụt, sạt lở đất gây ra nhiều thiệt hại và khó khăn trong sản xuất và giao thông đi lại.

+ Vị trí địa lý nằm xa trung tâm huyện lỵ và tỉnh lỵ, thiếu các dịch vụ cung cấp đầu vào và bao tiêu đầu ra, thị trường hẹp và thiếu cạnh tranh. Từ đó dẫn đến nông dân bị hạn chế đến việc mở mang kiến thức xã hội và kinh doanh.

+ Trình độ dân trí còn thấp, mặt bằng không đồng đều.

+ Một số hạng mục về cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm mới được đầu tư xây dựng ở những năm gần đây, vì vậy chưa tác động được nhiều đến sự phát triển chung của cả xã. Thực tế các công trình hạ tầng phần lớn chỉ tác động đối với các hộ dân sống ở khu trung tâm xã, còn lại các thôn bản ở sâu, ở xã trung tâm, không được ảnh hưởng nhiều.

Hiện nay, trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Trung Thành đã và đang khai thác, sử dụng một cách có hiệu quả những yếu tố thuận lợi về điều kiện tự nhiên để đẩy mạnh công cuộc phát triển kinh tế xã hội, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và Nghị quyết số 09 – NQ/TU ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi Thanh Hóa đến năm 2020”.

1.2 Khái quát các loại đất chủ yếu Trung Thành có diện tích rừng các loại: 7440,80ha; Trong đó: Rừng phòng hộ là 275,16ha; rừng đặc dụng có 4300,14ha; rừng sản xuất có 2865,50ha. Rừng sản xuất giao cho hộ gia đình quản lý, rừng đặc dụng và rừng phòng hộ Nhà nước (kiểm lâm) và Khu Bảo tồn Thiên nhiên Pù Hu quản lý .Cây lâm nghiệp trên đất rừng sản xuất chủ yếu là cây luồng, đây là cây đem lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững, là cây thế mạnh của xã và của huyện.

1.3.  Hệ thống sông, suối lớn chảy qua địa bàn  của xã;

    a) Tên sông, suối gồm: Sông Mã,  suối Quýt; suối Cú, Suối Long, Suối Nánh, Suối Cá, Suối Tang….

    b) Nguồn gốc của sông:

-Sông Mã là nguồn chảy từ nước Bạn Lào có tên gọi từ lâu đời gọi là sông mã, sông Mã chạy qua xã có chiều dài khoảng 12km tạo danh giới với xã Thành Sơn; sông mã có các con suối lớn chảy đổ ra sông mã như suối Cá, suối Cú, Suối nánh, suối Tang, Suối quýt, suối Phai… các suối có các nhánh suối nhỏ chảy ra nguồn lượng nước càng lớn.

-Suối Quýt, Suối Long, suối Nánh, suối Cú và suối Cá là suối chảy từ đồi núi đất bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, giáp ranh với xã Nam Tiến.

 Suối Quýt chảy qua Bản Trung Tâm, Trung Lập, Trung Tiến, Trung Thắng và Bản Cá, Bản Chiềng .Suối quýt chảy đến Bản Trung Thắng thì suối Long ở Bản Trung Thắng chảy ra suối quýt từu đó nguồn nước chảy rất lớn 2 dòng suối này đều chảy ra sông mã.

 c) Ý nghĩa của tên sông, suối;  Sự tích sông, suối.

 Suối Nánh được năm ở vị trí gần giáp danh giữa bản Tang và bản Sậy: các cụ đặt tên suối theo một loài cây, đó là “cây Nánh” theo tiếng Mường,  Còn tiếng kinh gọi là cây “Sa Nhân”, đây là một loài cây dược liệu quý, thường mọc tập trung ở hai bên bờ suối có nhiệt độ mát, ẩm ướt.

 Suối Tang nằm ở địa bàn Bản Tang, suối Tang đầu nguồn bắt đầu từ giáp ranh với Bản Lọng, ( Bản Trung Tiến bây giờ) suối Tang chạy qua Bản Tang đổ ra sông Mã, “suối Tang” cũng tương tự theo như suối Nánh, các cụ cũng đặt tên suối theo một loài cây mọc nhiều nhất ở khu vực này đó là “Cân Tang” gọi theo tiếng Mường, còn tiếng Kinh gọi là “Cây Giang” cây này thuộc về họ “cây Bương” nhưng “cây Giang khác cây Bương là ở chỗ nó có thớ rất mềm, dẻo và chắc và thường mọc tập trung ở khu vực đất ẩm ướt, nhiệt độ ôn hòa, Cây này từ trước đến nay thường hay lấy làm lạt buộc gói Bánh Trưng cho ngày tết. Ngày xưa nước chảy mạnh to nhưng nay do chia nhánh nguồn nước cho bản Trung Tiến làm nguồn nước sạch sinh hoạt và do phát nương làm rãy đầu nguồn nên nguồn nước cạn kiệt, nay nước chảy nhỏ.

Suối Cú nằm ở địa bàn Bản Sậy, “suối Cú” còn gọi là Hoọn Khụ hoặc huối Cú; tiếng Thái gọi là huối Cú, tiếng Mường gọi là hoọn Khụ  (Co Cú hoặc Cân Khụ nghĩa là cây Sấu hay ăn quả và hay trồng để tạo bóng dâm mát) ngày xưa con suối này có một cây cổ thụ, là cây Sấu to mọc ở đầu nguồn suối, nên người ta gọi là suối Cú

    1.4. Hệ thống đồi, núi đá, núi đất, độ cao của núi trong địa bàn của xã

    a) Tên các đồi, núi cao ở xã Trung Thành: Xã Trung Thành có rất nhiều đồi, núi cao hùng vĩ, nhưng điển hình nhất, và có tên tuổi nổi tiếng từ lâu đời đi vào lịch sử thì chỉ có năm ngọn núi đó là:

1, Núi “Pom Pha Soi; Cao so với mặt biển hơn 800 mét

2, Núi “Pha Đon”; Cao hơn mặt biển gần 900 mét

                   3, Núi “Pù Hu”, Cao hơn mặt biển hơn 1.400 mét

4, Núi “Pù hóc”: núi này gồm có 3 tên đó là: Pù Hóc; Pù Luông và Pù sam mường.   Cao hơn mặt biển khoảng 1.450 mét

5, Núi “Pom Pha Lài” Cao hơn mặt biển khoảng 900 mét

 Đặc điểm vị trí địa lý của năm ngọn núi này có một sự sắp xếp tự nhiên rất có ý nghĩa tâm linh và khoa học từ thời cổ đại cũng như bây giờ. Năm ngọn núi này vị trí cách nhau gần như được bố chí chia đều thành một rãy theo hình vòng cung và cũng gần như là rãy cột mốc tự nhiên cho vị trí địa giới của xã Trung Thành. Cụ thể như: Núi “Pom Pha Soi nằm ngay góc 90o hình bán nguyệt đầu tiên về phía đông của xã; núi “Pom Pha Đon” nằm cách núi “Pom Pha Soi” chếch về Tây Nam, nằm gần giáp ranh với xã Phú Sơn; và đến Núi  Pù Hu; tiếp theo là núi Pù Hóc; cuối cùng là núi “Pom Pha Lài” nằm về phía Tây của xã.                   

Năm ngọn núi kể trên mỗi một ngọn núi có ý nghĩa, lịch sử riêng biệt, phân vùng lãnh thổ và hình thái khác nhau, cụ thể như:

      b) Tên gọi núi, đồi theo tiếng dân tộc? Ý nghĩa của tên đồi, núi.? Và Sự tích của các núi, đồi :

Tên của 5 ngọn núi kể trên, đây là tên gọi theo tiếng dân tộc Thái. Rãy 5 ngọn núi này nếu tính theo độ cao và tính so từ mặt biển thì ta dễ nhận ra rằng đã chia thành 2 tầng lớp rõ rệt. Cụ thể là: Ba ngọn núi: Pom Pha Soi; Pha Đon và Pha Lài thì nằm gần theo dòng sông Mã, độ cao so với mặt biển có độ cao từ 800 đến 900 mét; còn 2 ngọn núi còn lại là núi Pù Hu và núi Pù Hóc ở cách xa dòng sông Mã hơn thì có độ cao hơn 1.400 mét so với mặt biển. Lý do và nguyên nhân tại sao lại chia thành độ cao và hình thái khác nhau như vậy? Từ những lời kể của các lớp ông, cha kể lại cho biết: Ngày xửa ngày xưa, từ thời cổ đại trước Công Nguyên trở về trước vài nghìn năm thì khu vực địa bàn xã Trung Thành cũng như các địa bàn khu vực các xã xung quanh thì toàn là mặt nước bồng bềnh chiếm phần nhiều, còn đất liền thì rất ít, chỉ nhô lên vài chỏm cỏ, ngọn núi lô nhô trên mặt nước, dẫn chứng các ông, cha kể lại những bài vè theo tiếng dân tộc thái như là “ Pom Pha luông nhằng tó phưn sát,

Pom pha lát nhằng tó bơ bì,

Lồng mường ly, mường Páng pha Bo nhằng tó tô hoi,

Mống Pha soi giao ngòi Tặc tiến……Rồi thời gian trôi qua đời này qua đời khác thì mặt nước từ từ thu hẹp lại, rút thấp xuống và các chỏm cỏ, ngọn núi cũng từ từ nhô lên cao,  mặt nước làm sói mòn đất đá và ngọn đồi, núi nào ở khu vực có sự hóa thạch trong lòng đất cao thì ngọn núi đó sự sói mòn ít hơn nên các ngọn núi đó có độ cao hơn. Còn những ngọn núi nào nằm ở khu vực địa lý có độ hóa thạch trong lòng đất ít thì sự sói mòn cao và những ngọn núi đó thấp hơn.

          Còn ý nghĩa tại sao các cụ ngày xưa lại đặt tên cho các ngọn núi như vậy thì cũng theo lời xưa kể lại rằng: Đây cũng xuất phát từ hình thái, màu sắc và vị trí, tầm quan sát của các sư thầy thời bấy giờ rồi họ đã đặt tên các ngọn núi gắn liền với thực tế cụ thể cho từng ngọn núi có tên như bây giờ, cụ thể như:

          Núi “Pom Pha Soi”: Thì hình thái của ngọn núi này trông từ xa giống như một hình chóp nón khổng lồ. Nguồn gốc tạo nên hình thái đó là xuất phát từ chỗ nó sói mòn từ tự nhiên tao nên, mà sự “sói mòn” theo tiếng dân tộc Thái là “Soi” cho nên các cụ đặt tên cho là Núi “Pom Pha Soi”.

          Núi  “Pom Pha Đon”: Hình thể của ngọn núi này là núi đá trắng, ở xa trông về thấy ngọn núi này chỉ thấy một tảng đá màu tráng, mà từ “trắng”, theo tiếng của dân tộc Thái nó là “Đon” cho nên các cụ đã đặt tên cho núi này là Pha Đon.

          Núi “Pom Pù Hu”, “Pom Pù” là “dốc núi”, “Hu” là tên của một loài cây theo tiếng dân tộc Thái, có mọc nhiều nhất ở ngọn núi này, từ đó người ta đặt tên cho ngọn núi này là núi “Pom Pù Hu”.

          Núi “Pù Hóc”, còn có tên gọi khác là Pù “Sam mường”: cũng tương tự như những ngọn núi kể trên: “Pom Pù” là “núi dốc” theo tiếng Thái, “Hóc” còn có nghĩa là “Tô Hóc”, “Tô Hóc” nghĩa là “Con Sóc”, khu vực núi này rất nhiều họ hàng của loài Sóc má đỏ, sóc bạc má…sinh sống tập trung ở đây, cho nên các cụ đặt tên cho ngọn núi là núi Pom “Pù Hóc”; Còn tại sao ngọn núi này còn có tên gọi khác là Pù “Sam mường”, nó là thế này: Ngọn núi này có chiều cao nhất so với các ngọn núi ở xung quanh khu vực, mà vị trí của ngọn núi lại là chỗ đặt cột mốc danh giới giữa 3 xã đó là: Xã Trung Thành, xã Trung Lý và xã Trung Sơn. Đứng trên đỉnh núi “Sam mường” trông ra xung quanh là quan sát được cả 3 xã, “Sam mường” là như vậy.

          Cuối cùng là Núi “Pha Lài” Từ “Pha” nghĩa là núi đá, ngọn núi đá này là một loài đá khác biệt, khu vực nơi đây còn có tên là đá trứng nhái. Hình thái, kết cấu của tảng đá giống hệt như một chùm trứng nhái khổng lồ đặt ở đó, thêm vào đó nó có rất nhiều màu sắc khác nhau và đặc biệt là màu sắc của núi đá còn thay đổi theo thời tiết. Cụ thể là trời nắng có màu hoa đốm trắng, hồng, nâu óng ánh…; Trời mưa thì có màu đen, đỏ, vàng từng mảng một hòa quện trong sương mù lúc ẩn lúc hiện. Còn thời tiết râm mát thì hiện lên rất nhiều màu pha trộn. Có một thời gian trước đây, người dân nơi đây có nhiều người quan sát họ còn nói là hình như có ai cắm cờ ở giữa núi đá, nhưng cụ thể thì không phải. Bởi vì giữa núi dá trọc lóc như vậy từ xưa đến nay không ai leo lên được, và đó chỉ là sự thay đổi màu sắc theo thời tiết của núi đá mà thôi. Từ thực tế màu sắc của núi như vây cho nên các cụ ngày xưa đặt tên cho ngọn núi là núi “Pha Lài” ; Lài nghĩa là hoa.   

1.5. Hệ thống hang, động  nằm trong phạm vi địa bàn của xã

    a) Tên hang, xã có hang Kia ; thuộc địa bàn Bản Phai Tên gọi hang, động theo tiếng dân tộc  thái hang Kia có nghĩa là Hang Rơi ?  ý nghĩa của tên hang, động,        

    b) Sự tích  hang, động: Hang kia ngày xưa có một nhà Họ Lò Khằm( nhà Quan) sinh ra một người con gái tên là Nga nàng Nga càng lớn lên càng xinh  đẹp, và nàng Nga lại rất thích ăn thịt thú rừng, đặc biệt là thịt ( con rơi). Có một hôm nàng vừa sinh nhật tròn mười 17 tuổi nàng đang đi dạo chơi thì thấy một anh chàng nghèo đang đi bán (con rơi) nàng Nga rất vui mừng vì đã gặp được thứ mà mình thích nhất.

          Hàng ngày chàng nghèo vẫn đi qua khu vườn đó đưa thịt thú rừng và (con rơi) đi bán Nàng Nga lại tiếp tục mua (con rơi) với chàng nghèo không biết tên tuổi này. Ngày qua ngày nàng Nga và chàng Nghèo luôn gặp nhau người mua, người bán thịt thú rừng, một thời gian sau nàng Nga đã thầm yêu, nhớ chộm chàng nghèo, ngược lại chàng nghèo cũng  đã thầm yêu, nhớ chộm nàng Nga từ lúc mới gặp lần đầu, chàng nghèo không giám thổ lộ tình cảm của mình vì nàng Nga là con gái diệu nhà Quan, còn mình  thì một chàng nhà nghèo, nhưng nàng Nga vẫn hiểu được tình cảm của chàng nghèo cũng đã có tình cảm sâu nặng với nàng.

          Có một hôm thời tiết rất lạnh, chàng nghèo lại đị bán thịt thú rừng đang bán cho nàng Nga thì trời đổ một cơn mưa to, vậy chàng nghèo xin trú mưa ở ngoài hè nhà nàng Nga, hôm đó nàng Nga mới có thời gian nói truyện với chàng nghèo nhiều hơn, nàng Nga hỏi chàng tên là gì, chàng nghèo trả lời, chàng tên là Lăng. thế nhà chàng ở đâu, chàng không có nhà chàng ở trong một cái Hang, tên Hang đó được gọi là Hang Kia(Hang rơi) thế còn bố mẹ chàng ở đâu, chàng mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Nàng Nga biết được hoàn cảnh chàng Lăng nàng Nga càng yêu, thương chàng Lăng sâu nặng hơn. Ngày ngày nàng Nga cứ chốn ra vườn để được gặp chàng Lăng.

          Một thời gian sau bố mẹ nàng Nga đã phát  hiện cón gái diệu của mình đang yêu  một chàng nhà nghèo lại mồ côi cha mẹ nên nhà Quan đã nhốt con gái nàng Nga không cho ra chơi ngoài vườn cũng như ăn thịt con rơi nữa. Từ ngày đó nàng Nga sinh ra lâm bệnh nặng, bố mẹ nàng Nga rất yêu thương con gái hết mực và rất lo lắng cho bệnh tình con gái. Nhà quan đã mời bao nhiêu thầy thuốc, cúng bái nhưng bệnh tình con gái ngày một nặng thêm.

          Có một buổi chiều trời rất đẹp nàng Nga cố gắng gượng dậy xin bố mẹ ra ngắm trời đất lần cuối bố mẹ nàng Nga không biết làm thế nào vì thương con gái nên bố mẹ nàng cho phép ra ngoài vườn để hóng mát, nàng Nga vừa bước ra cổng thì  bỗng nhìn  thấy chàng Lăng đang mép vào trong bóng cây như đang chờ đợi nàng Nga đã bao nhiêu thời gian rồi, vào buổi chiều đẹp trời hôm đó nàng Nga đã gặp được chàng Lăng và bệnh tình của nàng đã đỡ hẳn.

   Nàng Nga đã quyết tâm chốn bố mẹ theo chàng Lăng cùng chung sống trong một cái Hang Kia( Hang Rơi). Sau bố mẹ nàng Nga biết tin con gái mình đã chốn theo một người con nhà nghèo vừa mô côi, vừa không có cái nhà để ở chỉ dựa vào một cái Hang để mà sống nhà quan rất tức giận. Nhà quan đã sai người đi tìm con gái và tìm cái Hang có con gái nhà quan đang chốn ở trong đó, nhưng nhà quan tìm đến cái Hang không thấy con gái của mình đâu cả vì chàng Lăng đã dấu người yêu của mình vào trong một tảng đã ở tầng 3 của  Hang Kia ( Hang Rơi) nên người nhà quan không thể tìm thấy được.

           Nhà Quan rất tức giận cho con gái từ đấy nhà Quan từ bỏ con gái luôn không quan tâm và cũng không tìm con gái nàng Nga nữa. Vậy chàng Lăng và nàng Nga được chung sống với nhau hạnh phúc trong một cái Hang.

          Ngày ngày chàng Lăng luôn luôn chăm chỉ săn bắn thú rừng, phá  rừng chặt cây làm  củi để đem bán nuôi nàng Nga. Chàng Lăng từ ngày này sang ngày khác, từ năm nay sang năm khác chàng Lăng vẫn săn bắn, chặt cây làm củi nhiều ngày tháng dần dần con thú cũng hết, rừng cũng cạn kiệt, nước trong Hang cũng dần dần khô cạn, một thời gian sau Chàng Lăng và nàng Nga dần dần kiệt sức  không còn gì để ăn, không có nước để uống vì trước đây chàng Lăng đã săn bắn rất nhiều thú rừng, phá rừng làm củi dẫn đến mọi thứ trên thế gian bị suy vong.

          Vậy vào một mùa đông lạnh giá, khô hạn chàng Lăng và nàng Nga đã dần dần kiệt sức sắp đi vào cõi vình hằng, trước khi chết nàng Nga nói với chàng Lăng rằng, chàng à thiếp yêu chàng rất nhiều thiếp từ bỏ cả gia đình, bố mẹ để được sống cùng chàng nhưng vì chàng chỉ biết săn bắn thú rừng, chặt cây, phá rừng  làm củi dẫn đến nguồn nước ngày một cạn khô nên thiếp và chàng không còn đủ sức mà sống.

          Nàng Nga sắp chết đã nói với chàng Lăng rằng thiếp chết thiếp sẽ hóa thành đá, còn chàng thì hóa thành nước, nước chảy đi đâu thì có tảng đá ở và nguồn nước trong Hang này chảy ra ở đâu mà con người uống được thì phải mọc hai cây cổ thụ rất to để có bóng mát và giữ nguồn nước cho thế hệ mai sau:

          Do vậy  xã Trung Thành có hang Kia( Hang rơi) và trong Hang kia có tượng của nàng Nga hóa thành đá, có một dòng nước chảy Hang Kia ra đến đầu bản và cũng mọc hai cây cổ thụ rất to đó là cây sấu ở Bản Phai. như vây cái hang kia  có nguồn nước chảy, Người xưa đặt tên cho dòng suối đó là suối Lăng Nga.( là suối chàng Lăng và Nàng Nga).

     1.6. Hệ thống thung lũng trong phạm vi địa bàn của xã

    a) Tên thung lũng; Thung Lũng Co Hiềng, Thung Lũng Bó Cang, Thung Lũng Co Cại tên gọi  các thung lũng theo tiếng dân tộc Thái. thuộc địa bàn các bản như Bản Trung Lập, Tên gọi thung lũng theo tiếng dân tộc thái, ý nghĩa của tên gọi,  lũng có cây cọ rừng, và lũng co cại có cây vải rừng to người ta đặt tên là lũng co Hiềng và lũng co cại.    

           b) Sự tích thung lũng

     1.7. Các loài động vật rừng chủ yếu trước đây và hiện nay trên địa bàn của xã

a, Xã Trung Thành từ trước đến nay có rất nhiều động vật hoang dã sinh sống, cụ thể như:  Nai, hoãng; lợn rừng( lợn lòi ); Sơn Dương; chó sói; khỉ,vượn, bò tót, hổ, báo, tê tê  cày bay rùa cạn, ….các loài chim như chim Qụa, chim Trĩ;  gà lôi;gà rừng, nhím, con Don chúng tôi                

 b) Các loài động vật rừng chủ yếu hiện nay, còn có Lợn Lòi, Hoãng, Sơn Dương; nhím, sóc …  còn ngoài ra các loài khác đã tiệt ; không còn . Các loại động vật này chủ yếu sinh sống ở khu vực bảo tồn thiên nhiên Pù Hu

1.8.  Các loài thực vật (gồm các loại gỗ, cây làm nguyên liệu công nghiệp, cây làm thuốc và các loại thảm thực vật khác…).trước đây và hiện nay

   a) Các loài thực vật (gồm các loại gỗ, như gỗ Lim, sến, rẻ ; cây sú.; cây Táu, vàng Tâm, cây Nghiến, Dổi, cây giàng dàng..vv. cây làm nguyên liệu công nghiệp, xã Trung Thành không có; cây làm thuốc có rất nhiều thứ cây như sâm đất, củ 7 lá, thiên niên kiện, xa nhân, khúc khắc, củ mài ….và các loại thảm thực vật khác…).trước đây;   phân bố chủ yếu thuộc địa bàn toàn xã bản nào cũng có ;  Giá trị sử dụng, giá trị kinh tế trước đây và hiện nay của một số loài chủ yếu trước đây các loại cây chủ yếu sử dụng gỗ làm nhà ở loại nhà sàn thưng ván, vì trước đây nó nằm ở vùng đất 02 của các thôn bản nên các thôn bản vừa phát nương làm rãy, vừa sử dụng cây gỗ làm nhà ở, sau khi có chủ trương chí đất và quản lý sử dụng đất, đất 02 của bà con trở thành rừng luồng khép kín, các loại gỗ này chỉ còn nằm ở rừng pù hu, thuộc khu bảo tồn thiên nhiên pù hu quản lý.

        b) Các loài thực vật (gồm các loại gỗ, cây làm nguyên liệu công nghiệp, cây làm thuốc và các loại thảm thực vật khác…) hiện nay, các loài cây này vẫn còn nhưng nằm ở khu bảo tồn thiên nhiên pù hu;  Giá trị sử dụng, giá trị kinh tế trước đây và hiện nay của một số loài chủ yếu Trước đây giá trị kinh tế chủ yếu được sử dụng gỗ làm nhà ở, nhưng nay không còn nên kinh tế của bà con chỉ nhìn vào cây luồng để khai thác lấy tiền và làm nhà xây nâng cấp nhà ở.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Cổng Điện Tử trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!