Xem 18,117
Cập nhật nội dung chi tiết về Câu Bị Động Trong Tiếng Nhật Và Cấu Trúc Tương Đương Trong Tiếng Việt mới nhất ngày 20/05/2022 trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến nay, bài viết này đã thu hút được 18,117 lượt xem.
--- Bài mới hơn ---
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC
W X
BÁO CÁO
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:
CÂU BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG NHẬT VÀ CẤU
TRÚC TƯƠNG ĐƯƠNG TRONG TIẾNG VIỆT
日本語の受動文とベトナム語における相当の形
SVTH: NGUYỄN THỊ THU THƯƠNG
GVHD: Th.S Nguyễn Trần Hoàng Quyên
BIÊN HÒA, THÁNG 12 NĂM 2010
LỜI CẢM ƠN
Để hình thành đề tài nghiên cứu này ngoài sự nỗ lực của bản thân, em còn
nhận được giúp đỡ nhiệt tình từ gia đình, quý thầy cô, bạn bè đã tạo điều kiện cho
em trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu này.
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn đến:
–
Ban giám hiệu trường Đại học Lạc Hồng, khoa Đông Phương học đã tạo mọi
điều kiện tốt nhất để em được học tập, rèn luyện và nghiên cứu trong suốt
bốn năm học qua
–
Quý thầy Cô khoa Đông Phương học nhất là các Thầy Cô ngành Nhật Bản
học đã tận tình truyền đạt những kiến thức và những kinh nghiệm quý báu
cho em trong suốt quá trình học tập tại trường
–
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Cô – Ths. Nguyễn Trần
Hoàng Quyên. Cô đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và giúp đỡ em rất nhiều
trong việc hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Cùng với quý Thầy Cô giáo
phản biện đã cho em nhiều ý kiến quý báu giúp em hiểu rõ những điểm hạn
chế trong đề tài nghiên cứu của mình để có thể hoàn thiện được đề tài tốt hơn.
–
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự quan tâm, động viên,
cũng như sự hỗ trợ tận tình từ gia đình, bạn bè và người thân đã giúp em
hoàn thành tốt việc học cũng như hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Biên Hoà, ngày 01 tháng 12 năm 2010
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thu Thương
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………………………………… 1
1. Lý do chọn đề tài …………………………………………………………………………………………….. 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài………………………………………………………………………………….. 2
3. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………………………………………….. 4
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ………………………………………………………………………………. 5
5. Những dự kiến nghiên cứu tiếp tục về đề tài ……………………………………………………….. 5
6. Cấu trúc của đề tài …………………………………………………………………………………………… 6
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………………………………………….. 7
CHƯƠNG I: CÂU BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG NHẬT – TIẾNG VIỆT …………………….. 8
1.1
Đặc trưng cơ bản của câu bị động trong tiếng Nhật ………………………………….. 10
1.1.1 Khái quát về tiếng Nhật…………………………………………………………………….. 10
1.1.2 Câu bị động trong tiếng Nhật …………………………………………………………….. 10
1.1.2.1 Ý nghĩa …………………………………………………………………………………… 10
1.1.2.2 Hình thức cấu tạo và trường hợp sử dụng………………………………………. 11
1.2
Đặc trưng cơ bản của câu bị động trong tiếng Việt …………………………………… 15
1.2.1 Khái quát tiếng Việt………………………………………………………………………… 15
1.2.2 Các quan niệm khác nhau về câu bị động trong tiếng Việt …………………… 16
12.2.1 Quan niệm cho rằng tiếng Việt không có câu bị động……………………… 16
1.2.2.2 Quan niệm cho rằng tiếng Việt có câu bị động………………………………. 17
1.2.3 Câu bị động trong tiếng Việt ……………………………………………………………. 18
1.2.3.1 Cấu trúc cú pháp chung của câu bị động ………………………………………. 18
1.2.3.2 Tiêu chí nhận diện và phân biệt câu bị động với câu chủ động………… 19
1.2.3.3 Phân biệt trợ động từ bị động với động từ thực và động từ hình thái.. 19
CHƯƠNG II: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG CÁCH NÓI BỊ ĐỘNG
GIỮA TIẾNG NHẬT VÀ TIẾNG VIỆT………………………………………………………………… 24
1. Tiêu chuẩn nhận định câu bị động trong tiếng Việt và tiếng Nhật ………………………… 26
2. Sự tương đồng và khác biệt trong cách nói bị động của tiếng Nhật và tiếng Việt …… 27
2.1 Trên phương diện hình thái………………………………………………………………………. 28
2.2 Trên phương diện ý nghĩa………………………………………………………………………… 28
2.3 Trên phương diện cấu trúc cú pháp …………………………………………………………… 30
2.3.1 Câu bị động trực tiếp ………………………………………………………………………. 31
2.3.2 Câu bị động gián tiếp ………………………………………………………………………. 33
3. Khái quát những nhân tố làm cho ngôn ngữ biến đổi, phát triển và có sự khác biệt… 34
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÂU BỊ ĐỘNG TRONG GIAO TIẾP
CỦA NGƯỜI VIỆT HỌC TIẾNG NHẬT VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ PHƯƠNG
PHÁP DẠY-HỌC CÂU BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG NHẬT VÀ TIẾNG VIỆT ……….. 37
3.1 Về cấu trúc ngữ pháp ………………………………………………………………………………. 40
Câu 1 ………………………………………………………………………………………………………….. 40
Câu 2 ………………………………………………………………………………………………………….. 43
Câu 3 ………………………………………………………………………………………………………….. 47
Câu 4 ………………………………………………………………………………………………………….. 49
Câu 5 ………………………………………………………………………………………………………….. 51
Câu 6 ………………………………………………………………………………………………………….. 54
3.2 Cách học của sinh viên ……………………………………………………………………………. 55
Câu 7 ………………………………………………………………………………………………………….. 55
Câu 8 ………………………………………………………………………………………………………….. 57
3.3 Giáo trình ………………………………………………………………………………………………. 59
Câu 9 ………………………………………………………………………………………………………….. 59
3.4 Cách dạy của giáo viên ……………………………………………………………………………. 63
Câu 10 ………………………………………………………………………………………………………… 63
PHẦN KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………………….. 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………………………………… 70
PHỤ LỤC……………………………………………………………………………………………………………… 73
-1-
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam và Nhật Bản là hai nước châu Á có mối quan hệ lâu đời trong lịch sử.
Từ thế kỷ thứ mười sáu đến thế kỷ mười bảy, nhiều người Nhật đã sang sinh sống,
buôn bán với Việt Nam và để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp như phố người Nhật ở Hội
An, phố Hiến… Ngày nay, Nhật Bản trở thành quốc gia có nền khoa học kỹ thuật
tiên tiến bậc nhất thế giới chính là nhờ sự lãnh đạo tài tình của chính phủ Nhật và sự
phấn đấu không ngừng vươn lên của người dân Nhật Bản. Thành quả mà họ đã đạt
được là những kỳ tích về kinh tế, về văn hóa cũng như giáo dục. Những bài học và
những kinh nghiệm quý báu này của Nhật Bản rất hữu ích đối với nhiều nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam. Để có thể học tập và tiếp thu được các công nghệ
cũng như những kinh nghiệm quý báu đó của Nhật Bản, Việt Nam cần phải đào tạo
nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực tiếng Nhật nói riêng để đáp ứng nhu
cầu công việc ngày càng nhiều giữa hai nước.
Ở châu Á, xét về văn hóa cũng như phong tục tập quán thì Việt Nam và Nhật Bản
có rất nhiều nét tương đồng: Về mặt nhân chủng học, hai dân tộc lại càng gần gũi
nhau, theo kết quả điều tra về vết chàm ở chỗ sương sống cụt của trẻ em mới sinh ra
thì chỉ có ở dân tộc Việt Nam, Nhật Bản và Mông Cổ, các dân tộc khác không có.
Về mặt ngôn ngữ thì tiếng Nhật và tiếng Việt cũng có nhiều điểm giống nhau. Đó là
vì tiếng Nhật và tiếng Việt đều có nguồn gốc chung là tiếng Hán. Trong tiếng Nhật
có cách đọc chữ Hán theo “ON” và theo “KUN” còn trong tiếng Việt cũng có cách
đọc tương tự đó là âm “Hán Việt” và “Thuần Việt”. Hơn nữa còn có một số từ phát
âm rất giống nhau ví dụ như: “Kokka – Quốc gia”; “Iken – Ý kiến”; “Kokki – Quốc
kỳ”… Vì vậy có thể nói giữa hai dân tộc đã có duyên với nhau từ ngàn xưa nên
người Việt Nam rất thích đất nước và con người Nhật Bản.
Nhiều người cho rằng “Tiếng Nhật là một trong mười ngôn ngữ khó nhất thế
giới”. Vì hệ thống chữ viết của tiếng Nhật rất phức tạp có 4 kiểu chữ viết: Hiragana,
-2-
Kanji, Katakana, Romaji. Từ trong tiếng Nhật mặc dù có một âm đọc nhưng lại
mang nhiều ngữ nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, việc học ngoại ngữ nói chung và việc
học tiếng Nhật nói riêng thì việc hiểu những đặc trưng về ngữ âm, từ vựng, chữ
viết,… là rất quan trọng.Trong đó một đặc trưng quan trọng mà người học không thể
bỏ qua đó là đặc trưng về ngữ pháp. Thực tế cho thấy, vấn đề “câu bị động” đối với
người Việt học tiếng Nhật là một vấn đề khó và phức tạp nên khi sử dụng tiếng
Nhật để giao tiếp thì cách nói của câu bị động rất ít và hầu như không được sử dụng.
Thông qua đề tài “Câu bị động trong tiếng Nhật và cấu trúc tương đương
trong tiếng Việt” người viết muốn nghiên cứu về vấn đề câu bị động trong giao
tiếp của người Nhật và người Việt nhằm bổ xung và trang bị thêm một cách hệ
thống, cụ thể những kiến thức về câu bị động trong cấu trúc ngữ pháp của hai ngôn
ngữ. Và đây cũng đây cũng là dịp để người viết hiểu rõ thêm những đặc trưng về
văn hóa, về tính cách con người của hai dân tộc được ẩn chứa đằng sau ngôn ngữ.
Ngoài ra người viết cũng mong muốn nghiên cứu này có thể giúp ích cho những
người học tiếng Nhật có thể hạn chế được sự nhầm lẫn trong cách sử dụng và có thể
sử dụng một cách thành thạo cách nói bị động trong quá trình giao tiếp.
-3-
-4-
tránh những nhầm lẫn thường gặp. Đồng thời bổ xung những kiến thức về dạng câu
bị động cho người Việt. Công trình nghiên cứu này chắc chắn sẽ không tránh khỏi
một số sai sót. Vì vậy người viết mong nhận được ý kiến đóng góp của các học giả,
các nhà nghiên cứu đi trước để bài viết này được hoàn chỉnh hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này với mục đích tìm hiểu “Câu bị động trong tiếng Nhật và cấu
trúc tương đương trong tiếng Việt” người viết sử dụng những phương pháp sau đây:
– Thu thập dữ liệu: Được thực hiện bằng cách tra cứu bài viết, bài tham khảo bằng
tiếng Việt và tiếng Nhật trên mạng, tra cứu các công trình nghiên cứu của các tác
giả người Nhật, người Việt tại thư Tổng hợp TP HCM, thư viện Nhật-Việt (VJCCHCM), các nhà sách…. Ngoài ra người viết còn thu thập các tài liệu thông qua
nguồn tài liệu sách vở từ giáo viên, những nhà nghiên cứu đi trước.
– Thống kê: Dựa vào bước thu thập tài liệu, người viết sẽ lập bảng thống kê, phân
tích thực trạng sử dụng câu bị động trong giao tiếp của người Việt học tiếng Nhật
và người Nhật học tiếng Việt. Từ đó rút ra những biện pháp khắc phục.
–
So sánh: Sau khi tiến hành những phương pháp trên, người viết chuyển sang
-5-
những ý kiến đóng góp của giáo viên, những ý kiến phản hồi từ những sinh viên
chuyên ngành Nhật Bản học và những nhà nghiên cứu đi trước để lấy làm tài liệu
thực tế cho công trình nghiên cứu.
– Khảo sát: Để tìm ra được những sai sót phổ biến và những khó khăn trong việc
sử dụng cấu trúc bị động ở những học viên người Việt học tiếng Nhật và ngược lại
người Nhật học tiếng Việt. Phương pháp khảo sát được người viết áp dụng khi lập
phiếu điều tra ngôn ngữ và tiến hành khảo sát. Đối tượng được chọn để tiến hành
phương pháp này là những người Việt học tiếng nhật ở các trường đại học, các
trung tâm Nhật ngữ… Và một số người Nhật học tiếng Việt đang sống và làm việc
tại các công ty Nhật ở Thành Phố Biên Hòa, người Nhật học nghành Việt Nam học
ở đại học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn. Với phương pháp này, đề tài có thêm một
số cơ sở thực tiễn dể việc so sánh tiếng Việt với tiếng Nhật được chính xác hơn.
Ngoài ra, việc đưa những giải thích, phân tích về các lỗi sai khi học viên sử dụng
tiếng Việt cũng sẽ có cơ sở vì người học được lưu ý đến những gì mình đã bỏ qua
hoặc chưa chú ý đến.
4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Chúng ta vẫn thường nghe câu “ngôn ngữ là phương tiện truyền tải và lưu
giữ những di sản văn hóa dân tộc” vì vậy đề tài nghiên cứu về ngôn ngữ – “Câu bị
động trong tiếng Nhật và cấu trúc tương đương trong tiếng Việt” sẽ là cơ hội giúp
người Việt hiểu thêm về ngôn ngữ Việt. Ngoài ra thông qua đề tài này người Việt
và người Nhật một lần nữa nhìn lại những nét văn hóa truyền thống của nước mình
trong xu thế thương mại và toàn cầu hóa hiện nay- nơi mà những giá trị văn hóa
đang bị lãng quên. Đồng thời, nghiên cứu đề tài này sẽ là nguồn tài liệu cung cấp về
cách sử dụng, tình huống giao tiếp và những lỗi dễ nhầm lẫn thường gặp trong cách
nói bị động của hai ngôn ngữ nhằm mục đích giúp người học có thể sử dụng thành
thạo và có thể tránh được những nhầm lẫn trong khi giao tiếp.
5. Những dự kiến nghiên cứu tiếp tục về đề tài:
Trong đề tài nghiên cứu này người viết chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu về điểm
tương đồng và khác biệt trong cách nói bị động của hai ngôn ngữ Nhật – Việt, chính
-6-
vì vậy chắc chắn đề tài còn nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ. Cũng vì lý do đó
mà người viết muốn nghiên cứu thêm về đề tài này nhằm phát triển và mở rộng vấn
đề để có cách nhìn khách quan về nội dung đề tài nghiên cứu:
– Nét văn hoá được thể hiện thông qua ngôn ngữ
– Thực trạng sử dụng cách nói bị động của người Nhật ở Nhật
– Thực trạng sử dụng cách nói bị động của người Việt ở Việt Nam
– Những cách nói khác cũng thể hiện ý bị động trong hệ thống cấu trúc ngữ pháp
tiếng Nhật
– Nghiên cứu về tất cả các ý nghĩa của động từ được chia ở dạng “rareru”
– Nghiên cứu và so sánh câu bị động trong tiếng Nhật và tiếng Việt vối một số ngôn
ngữ khác trên thế giới
6. Cấu trúc của đề tài
Chương I: “Câu bị động trong tiếng Nhật và tiếng Việt”.
Chương II: “Sự tương đồng và khác biệt trong cách nói bị động giữa tiếng Nhật và
tiếng Việt”
Chương III: “thực trạng sử dụng câu bị động trong giao tiếp của người Việt học
tiếng Nhật và một số đề xuất về phương pháp dạy – học câu bị động trong tiếng
Nhật và tiếng Việt”
-7-
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: “Câu bị động trong tiếng Nhật và tiếng Việt”.
Chương II: “Sự tương đồng và khác biệt trong cách nói bị động giữa tiếng Nhật và
tiếng Việt”
Chương III: “thực trạng sử dụng câu bị động trong giao tiếp của người Việt học
tiếng Nhật và một số đề xuất về phương pháp dạy – học câu bị động trong tiếng
Nhật và tiếng Việt”
-8-
CHƯƠNG I
CÂU BỊ ĐỘNG
TRONG TIẾNG NHẬT TIẾNG VIỆT
-9-
Câu bị động là một hiện tượng ngữ pháp điển hình của các ngôn ngữ Ấn – Âu.
Xét về chức năng, khái niệm này đề cập trực tiếp đến mối quan hệ ngữ pháp
giữa động từ và các thành tố ngữ pháp nòng cốt là chủ ngữ và bổ ngữ, nhưng
ngữ pháp truyền thống Châu Âu lại dựa vào phương thức biểu hiện của nó là
quy dạng bị động về phạm trù tình thái học của động từ. Tuy nhiên sự khác biệt
về hình thức ( hình thái – cú pháp) của câu bị động trong các ngôn ngữ không đi
ra ngoài quy luật chung là phản ánh các đặc trưng loại hình của ngôn ngữ đó.Ý
nghĩa bị động chủ yếu được biểu hiện bằng hình thái từ vì vậy dạng bị động
thường được coi là một phạm trù hình thái học thuần túy. Ở các ngôn ngữ ít tổng
hợp tính hơn ( như tiếng Anh), ý nghĩa bị động thường biểu hiện bằng sự kết
hợp giữa các hình thái từ với các phương tiện cú pháp như hư từ
(1)
(2)
và trật tự từ
, tương ứng bị động được coi là một phạm trù hình thái – cú pháp. Còn trong
các ngôn ngữ phân tích tính điển hình như Tiếng Việt, ý nghĩa bị động chủ yếu
được biểu hiện bằng hư từ và trật tự từ, và có dáng dấp của một phạm trù thuần
túy cú pháp.
(1) HƯ TỪ:
Từ không có khả năng độc lập làm thành phần câu, được dùng để biểu thị mối quan hệ ý nghĩa –
cú pháp giữa các thực từ, hoặc bổ sung các ý nghĩa ngữ pháp cho từ
– 10 –
1.1 Đặc trưng cơ bản của câu bị động trong tiếng Nhật
1.1.1 Khái quát về tiếng Nhật
Nhật Bản không phải là một quốc gia đa dân tộc vì vậy lẽ tất nhiên là gần một
trăm hai mươi triệu dân nước này đều sử dụng một ngôn ngữ duy nhất là tiếng Nhật.
Tuy vậy ở Nhật Bản lại tồn tại một hệ thống phương ngữ đa dạng của các vùng
khác nhau. Có hai tuyến phương ngữ chính là phương ngữ Kanto(Tokyo và các
vùng lân cận) và phương ngữ Kansai (Osaka).
Hiện nay, người Nhật sử dụng bốn loại chữ viết: Hiragana, chữ Kanji (chữ Hán)
được du nhập từ Trung Quốc từ thế kỉ III đến thế kỉ IV, Katakana (chữ ngoại lai)
được người Nhật sáng tạo vào thế kỉ VIII đến thế kỉ IX, và Romaji (chữ Latinh)
được các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha-Tây Ban Nha truyền vào thế kỉ XVI
đến thế kỉ XVII. Trong tiếng Nhật, âm tiết giữ vị trí vô cùng quan trọng. Nó vừa là
một đơn vị ngữ âm nhỏ nhất vừa là một đơn vị phát âm cơ bản và hầu hết không
mang nghĩa. Tiếng Nhật có năm nguyên âm: /a, i, u, e, o/ và mười hai phụ âm: /b, c,
d, g, h, l, m, p, r, s, t, z/ một số lượng khá ít so với các ngôn ngữ khác. Ngoài ra còn
hai âm đọc đặc biệt là âm mũi: /n/ và âm ngắt: /q/.
– 11 –
Ví dụ: (1) 弟は先生に叱られました。Em tôi bị thầy mắng
(2) 先生は弟を叱りました。Thầy mắng em tôi
Nếu so sánh hai ví dụ trên ta nhận ra một điều rằng: ở ví dụ (1) không chỉ đơn
thuần diễn tả sự việc em của người nói bị thầy mắng mà bằng cách nói bị động này
thì tâm trạng, sự cảm thông của người nói đối với sự việc của người em cũng được
thể hiện. Còn ở ví dụ (2) thì nó chỉ đơn giản là kể lại sự việc Thầy giáo(chủ thể của
hành động) mắng người em.
Người Nhật cho rằng trong mối quan hệ gia đình, bạn bè thân thuộc thì việc thể
hiện tình cảm của mình với những người thân đó là điều đương nhiên nên cách nói
bị động được coi là cách nói tự nhiên và thường được sử dụng trong quá trình giao
tiếp của họ.
私は弟を起こしました。
Ví dụ: かわいがっていた猫に死なれて、とても寂しかったです。
(Vì tôi bị chết con mèo dễ thương nên tôi rất buồn)
会議の間に隣の人にタバコを吸われて、気分が悪くなりました。
(Trong lúc họp, tôi đã bị người ngồi cạnh hút thuốc nên tôi cảm thấy rất khó chịu)
c) Câu bị động trung lập
Câu bị động trung lập là cách nói được sử dụng khi nói về một sự việc được
công bố một cách công khai, một sự thật mang tính xã hội, hay trình bày sự việc
một cách khách quan không mang tính tình cảm. Vì người thể hiện hành vi không
phải là người được quyết định trước nên trong trường hợp này người thực hiện hành
vi không được thể hiện.
1.2.2 Các quan niệm khác nhau về câu bị động trong tiếng Việt
Từ trước đến nay vấn đề câu bị động trong Tiếng Việt là một vấn đề gây
nhiều sự tranh cãi và có nhiều ý kiến nhất trong giới Việt ngữ học. Ta có thể quy
các ý kiến khác nhau này về hai quan niệm: phủ nhận và thừa nhận sự có mặt của
câu bị động trong Tiếng Việt.
--- Bài cũ hơn ---
Bạn đang đọc nội dung bài viết Câu Bị Động Trong Tiếng Nhật Và Cấu Trúc Tương Đương Trong Tiếng Việt trên website Comforttinhdauthom.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!